Sẽ triển khai đầu tư đường sắt Thủ Thiêm - Long Thành? Thị trường 10/7

Ngày đăng 10:26 10/07/2023

Theo Dong Hai

Investing.com – Thị trường tuần mới khởi động với các tin tức: TP.HCM đề xuất đầu tư đường sắt Thủ Thiêm - Long Thành, sẽ kết nối TP. Thủ Đức với Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Lạm phát lõi cao, NHNN sẽ thận trọng cân nhắc chính sách tiền tệ trong nửa cuối năm 2023? Việt Nam tăng cường xuất khẩu gạo vào thị trường EU… Dưới đây là nội dung chính 3 tin tức đáng chú ý trong phiên giao dịch hôm nay thứ Hai ngày 10/7.

1. TP.HCM đề xuất đầu tư đường sắt Thủ Thiêm - Long Thành

Tuyến đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành sẽ kết nối TP. Thủ Đức với Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Lãnh đạo ngành giao thông vận tải TP.HCM kiến nghị cần sớm triển khai dự án bằng nguồn vốn ngân sách như đầu tư cho Vành đai 3.

3 tuyến đường sắt quan trọng đi qua khu vực Đông Nam Bộ phấn đấu thông qua chủ trương đầu tư năm 2025, triển khai giai đoạn 2025 - 2030 gồm: Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam, đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành, đường sắt TP.HCM – Cần Thơ.

Hiện nay sân bay Long Thành dự kiến sẽ được khai thác vào năm 2025, trong khi đó cửa ngõ sân bay Tân Sơn Nhất đang quá tải. Do đó, Lãnh đạo Sở Giao thông vận tải TP.HCM kỳ vọng các tỉnh vùng Đông Nam Bộ cần thống nhất tiếp tục ưu tiên nguồn lực để đẩy nhanh tuyến đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành. Theo đó, việc kêu gọi đầu tư bằng PPP vào đường sắt là rất khó, vì vậy giống như dự án Vành đai 3, có thể ưu tiên sử dụng vốn đầu tư công. Theo nghiên cứu, tuyến đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành dài 37,35 km, với 20 ga, trong đó đoạn qua TP. HCM 11,8 km, qua Đồng Nai 25,55 km. Điểm đầu là ga Thủ Thiêm (TP.Thủ Đức, TP.HCM), điểm cuối là ga Cảng hàng không quốc tế Long Thành (tỉnh Đồng Nai).

Tổng mức đầu tư của dự án dự kiến khoảng 40.500 tỷ đồng. Tuyến đường sắt này chủ yếu phục vụ vận tải hành khách giữa trung tâm TP.HCM với Cảng hàng không quốc tế Long Thành, tốc độ tối đa 80 km/giờ, vận tốc khai thác 60 km/giờ.

2. Lạm phát lõi cao, NHNN sẽ thận trọng cân nhắc chính sách tiền tệ trong nửa cuối năm 2023?

Theo báo cáo từ SSI (HM:SSI) Research, tính đến cuối tháng 6, lạm phát chỉ tăng 2% so với cùng kỳ. Nhờ vậy, lạm phát quý II tăng 2,41% (quý 1: 4,2%) và lạm phát trung bình 6 tháng đầu năm tăng 3,29% - thấp hơn nhiều so với mục tiêu 4,5% của Chính phủ và đã giúp NHNN chủ động giảm tiếp lãi suất điều hành lần thứ 4 trong quý II.

Trong 6 tháng đầu năm, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (đóng góp CPI 1,24 điểm phần trăm) và nhóm lương thực, thực phẩm (đóng góp CPI 1,34 điểm phần trăm) chiếm tỷ trọng lớn nhất trong CPI.

Các yếu tố hỗ trợ lạm phát chính trong nửa đầu năm là giá xăng dầu (- 24,87%) giúp chỉ số giá giao thông giảm -8,34% (đóng góp giảm CPI 0,81 điểm phần trăm).

Tốc độ hạ nhiệt của lạm phát cơ bản chậm hơn nhiều so với lạm phát chung, khi ghi nhận tăng 4,3% so với cùng kỳ trong tháng 6 và 4,7% đối với lạm phát bình quân.

Theo SSI, lạm phát tổng thế hạ nhiệt nhanh chóng trong quý II, nhưng chưa phản ánh đến nhu cầu tiêu thụ điện tăng vọt và việc điều chỉnh giá điện bán lẻ trong tháng 6. Do vậy, SSI kỳ vọng lạm phát có thể sẽ nhích tăng dần trở lại trong tháng 7 tới đây. Điểm tích cực nhu cầu tiêu dùng suy yếu cũng khiến cho lạm phát khó có sự bứt phá, tuy nhiên việc lạm phát cơ bản duy trì ở mức cao và tốc độ giảm tương đối chậm là yếu tố cần phải đáng cân nhắc để NHNN có thể đưa ra chính sách tiền tệ phù hợp trong nửa cuối năm nay.

Tuy vậy, trong nhận định tổng thể SSI vẫn đưa ra dự báo nền kinh tế đang thiếu hụt động lực tăng trưởng. Mặc dù tăng trưởng các nhóm ngành trong quý II tích cực hơn so với quý I, so sánh mức tăng trưởng GDP theo quý cho thấy xu hướng hiện tại đang ở mức thấp hơn mức tăng trưởng trung bình giai đoạn trước COVID. Tăng trưởng GDP 6 tháng tăng 3,72% - mức thấp nhất kể từ 2021 nếu loại trừ giai đoạn COVID-19 2020. Về phía cầu, tăng trưởng 6 tháng chủ yếu đến từ xuất khẩu ròng khi chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp tới 63,45% trong khi xét về tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm so với cùng kỳ. Tiêu dùng cuối cùng và tích lũy tài sản chỉ ghi nhận tăng 2,68% và 1,15%.

SSI dự báo tăng trưởng GDP cho cả năm ở mức 4,5% - 5%. Theo SSI, các nỗ lực từ phía NHNN và Chính phủ có thể sẽ phải gặp các trở ngại đến từ việc cần phải duy trì cân bằng giữa tăng trưởng và sự ổn định vĩ mô (và hệ thống ngân hàng nói riêng). Yếu tố cản trở khác đến từ việc các điều kiện tài chính bên ngoài bị thắt chặt. Điểm tích cực có thể đến từ sự hồi phục của ngành du lịch (khi chính sách visa thuận lợi hơn) và sự phục hồi nhanh hơn từ các đối tác thương mại chính.

3. Việt Nam tăng cường xuất khẩu gạo vào thị trường EU

Bên cạnh các thị trường truyền thống ở châu Á, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang một số thị trường khó tính đòi hỏi tiêu chuẩn cao như EU cũng được đẩy mạnh trong thời gian qua.

Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, tính đến hết tháng 5 xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU đạt 46.839 tấn, trị giá 31,26 triệu USD, tăng 6,8% về lượng nhưng giảm 2,5% so với cùng kỳ năm ngoái.

Với kết quả này, các doanh nghiệp đã xuất khẩu hơn một nửa trong tổng số hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm mà EU cam kết dành cho Việt Nam theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).

Nếu tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng như hiện nay, một số chuyên gia cho rằng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU trong năm 2023 có thể chạm ngưỡng 100.000 tấn, con số cao nhất từ trước đến nay và vượt xa hạn ngạch của Hiệp định EVFTA.

Năm ngoái, các doanh nghiệp cũng đã xuất khẩu tới 94.510 tấn gạo sang thị trường EU, tăng 48% so với năm 2021 và vượt hơn 14.000 tấn so với hạn ngạch.

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Lượng gạo xuất sang EU tuy không lớn (chỉ chiếm chưa đến 2% trong tổng xuất khẩu gạo của cả nước), nhưng đây lại là thị trường xuất khẩu nhiều tiềm năng đối với các loại gạo thơm, gạo hữu cơ có giá trị gia tăng cao của Việt Nam.

Hiện gạo thơm (Jasmine, KDM, ST 24, ST 25…) chiếm hơn 39% tổng khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào EU, tiếp theo là gạo trắng chiếm 26,8%; gạo Nhật chiếm 18,2%; còn là gạo lứt, gạo vi chất và gạo nếp.

Do đó, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong 5 tháng đầu năm nay cũng khá cao so với các thị trường khác, đạt bình quân 667 USD/tấn, cao hơn 26% so với mức giá xuất khẩu chung là 529 USD/tấn của cả nước.

Vào tháng 2 năm nay, lần đầu tiên lô hàng 15 tấn gạo hữu cơ của nông dân tỉnh Quảng Trị được xuất khẩu sang thị trường châu Âu với giá lên đến 1.500 - 1.800 USD/tấn, gấp 2 – 3 lần giá gạo thường.

Về thị trường, Đức hiện đang là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam tại EU với khối lượng đạt 9.831 tấn, tăng 31,5% so với cùng kỳ và chiếm 21% thị phần. Tiếp theo là Hà Lan với 6.324 tấn, tăng 37,5% và chiếm 13,5% thị phần.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang nhiều thị trường khác trong khối EU tăng trưởng từ ba đến bốn con số như Ba Lan tăng 109,2%, Hugary tăng 571,2%, Bỉ tăng 165%, Tây Ban Nha tăng 307,7%, Bồ Đào Nha tăng 13 lần…

Trong số các thị trường chính, mức giảm đáng kể nhất là Italy khi lượng gạo xuất khẩu sang thị trường này giảm đến gần 70% so với cùng kỳ, xuống còn 5.638 tấn.

Nhìn chung gạo Việt Nam hiện đã có mặt tại hầu hết nước thành viên EU nhờ chất lượng ngày càng cải thiện, đáp ứng được yêu cầu từ cả các thị trường khó tính, đồng thời cho thấy tiềm năng mở rộng thị trường, gia tăng thị phần gạo chất lượng cao của Việt Nam.

Bình luận mới nhất

Cài Đặt Ứng Dụng của Chúng Tôi
Công Bố Rủi Ro: Giao dịch các công cụ tài chính và/hoặc tiền điện tử tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư. Giá cả tiền điện tử có độ biến động mạnh và có thể chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài như các sự kiện tài chính, pháp lý hoặc chính trị. Việc giao dịch theo mức ký quỹ gia tăng rủi ro tài chính.
Trước khi quyết định giao dịch công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần nắm toàn bộ thông tin về rủi ro và chi phí đi kèm với việc giao dịch trên các thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, mức độ kinh nghiệm, khẩu vị rủi ro và xin tư vấn chuyên môn nếu cần.
Fusion Media xin nhắc bạn rằng dữ liệu có trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ thị trường hay sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường, vì vậy, giá cả có thể không chính xác và có khả năng khác với mức giá thực tế tại bất kỳ thị trường nào, điều này có nghĩa các mức giá chỉ là minh họa và không phù hợp cho mục đích giao dịch. Fusion Media và bất kỳ nhà cung cấp dữ liệu nào có trên trang web này đều không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Fusion Media và/hoặc nhà cung cấp. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.
Fusion Media có thể nhận thù lao từ các đơn vị quảng cáo xuất hiện trên trang web, dựa trên tương tác của bạn với các quảng cáo hoặc đơn vị quảng cáo đó.
Phiên bản tiếng Anh của thỏa thuận này là phiên bản chính, sẽ luôn được ưu tiên để đối chiếu khi có sự khác biệt giữa phiên bản tiếng Anh và phiên bản tiếng Việt.
© 2007-2025 - Công ty TNHH Fusion Media. Mọi quyền được bảo hộ.