💼 Bảo vệ danh mục của bạn với công cụ chọn cổ phiếu có AI hỗ trợ của InvestingPro – HIỆN GIẢM tới 50% NHẬN ƯU ĐÃI

Nợ xấu đã thực chất?

Ngày đăng 16:03 23/10/2019
Nợ xấu đã thực chất?

Vietstock - Nợ xấu đã thực chất?

Điều quan trọng là liệu con số nợ xấu đã phản ánh thực chất hay vẫn còn lấp ló đâu đó những khoản nợ đã xấu, hoặc có khả năng trở thành nợ xấu, nhưng chưa được ghi nhận chính xác. Việc nhận diện nợ xấu đầy đủ là vô cùng quan trọng, vì như thế mới có quyết tâm, mục tiêu và giải pháp rõ ràng, phù hợp để xử lý

Hoang mang nợ xấu

Theo số liệu báo cáo gần đây của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn ngành xác định theo thông tư 02 là 1.98%. Nếu tính cả khoản nợ xấu đã bán cho Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) và các khoản nợ có khả năng thành nợ xấu, thì tỷ lệ nợ xấu tới hết tháng 8/2019 là 4.84%, giảm mạnh so với mức 7.36% năm 2017 và 5.85% năm 2018.

Kết quả đạt được này là nhờ vào tiến độ xử lý nợ xấu tiếp tục khả quan, cụ thể tính từ năm 2012 đến cuối tháng 8/2019, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) đã xử lý được 968.89 ngàn tỷ đồng nợ xấu, trong đó nợ xấu do các TCTD tự xử lý là 629.2 ngàn tỷ đồng, chiếm 64.94% tổng nợ xấu xử lý, còn lại là bán nợ (bao gồm bán nợ cho VAMC và tổ chức, cá nhân khác) chiếm 35.06%.

Đặc biệt, tốc độ xử lý nợ xấu từ khi Nghị quyết 42 ra đời đã khả quan hơn, với con số xử lý lũy kế từ 15/8/2017 đến cuối tháng 8/2019 đạt 236.8 ngàn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42, không bao gồm sử dụng dự phòng rủi ro và khoản nợ bán cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt, tương đương 24% tổng số xử lý trong 7 năm qua.

Như vậy, với tỷ lệ 4.84% kể trên, quy mô nợ xấu còn lại cần xử lý đến cuối tháng 8/2019 chỉ vào khoảng 368.3 ngàn tỷ đồng. Nếu nhìn vào con số nợ xấu gần 970 ngàn tỷ đồng đã được xử lý trong 7 năm qua, thì rõ ràng số nợ xấu còn lại cần xử lý không phải là thách thức quá to lớn, nhất là khi tiềm lực tài chính của các ngân hàng thời gian qua đã được nâng lên đáng kể, nhờ vào việc tăng vốn tự có cũng như nguồn lợi nhuận giữ lại tích lũy khá lớn và quy mô lợi nhuận ngày càng lên cao, do đó nguồn lực để xử lý nợ xấu cũng rộng rãi hơn.

Tuy nhiên, điều quan trọng là liệu con số nợ xấu kể trên đã phản ánh thực chất hay vẫn còn lấp ló đâu đó những khoản nợ đã xấu hoặc có khả năng trở thành nợ xấu, nhưng chưa được ghi nhận chính xác. Ngoài ra, những khoản nợ xấu phát sinh mới dường như đang nhanh hơn, thể hiện qua số liệu báo cáo tài chính của các TCTD thời gian qua, mà nếu không có giải pháp khả thi ngăn chặn thì áp lực nợ xấu vẫn sẽ chưa thể giải tỏa.

Việc nhận diện nợ xấu đầy đủ là vô cùng quan trọng, vì như thế mới có quyết tâm, mục tiêu và giải pháp rõ ràng, phù hợp để xử lý. Nói như vậy, bởi vì trong quá khứ đã từng có những lúc số liệu về nợ xấu vênh nhau khá lớn. Cụ thể cũng cách đây 7 năm theo báo cáo của các TCTD đến 31/5/2012, nợ xấu của hệ thống là 117.723 tỷ đồng, chỉ chiếm 4.47%. Tuy nhiên, theo số liệu NHNN đã mạnh dạn công bố tỷ lệ nợ xấu tới 8.82% vào năm 2012, vượt xa số liệu các NHTM công bố.

Trong khi đó, cũng vào năm 2012, theo số liệu của Fitch Ratings tỷ lệ nợ xấu Việt Nam lên đến 13% trên tổng dư nợ. Thậm chí, tới thời điểm tháng 5/2015, khi đánh giá lại toàn diện các nguồn nợ xấu, NHNN đưa ra một tỷ lệ nợ xấu gấp đôi tới 17.21% tại thời điểm 30/9/2012 tương đương 465.000 tỷ đồng cho vay không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ này gần với các đánh giá của Fitch là 15% vào tháng 9/2012 và tỷ lệ tới 20% theo đánh giá của Barclay.

Nhận diện đầy đủ

Tại Việt Nam, việc xác định nợ xấu hiện nay theo quy định ngân hàng, trước hết phải thông qua việc phân loại nợ tại Điều 10 Thông tư 02/2013/TT-NHNN, phân thành 05 nhóm theo thứ tự gồm Nợ đủ tiêu chuẩn, Nợ cần chú ý, Nợ dưới tiêu chuẩn, Nợ nghi ngờ và Nợ có khả năng mất vốn. Trong đó, nợ xấu tính từ nhóm 3 đến nhóm 5 và tỷ lệ nợ xấu an toàn cho phép là dưới 3% như thông lệ quốc tế.

Kể từ sau khi VAMC ra đời, nợ xấu của hệ thống TCTD công bố thường phải bao gồm nợ ngoại bảng đã bán cho VAMC. Ngoài ra, nếu tính luôn nợ đã được các ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo Quyết định 780 và Thông tư 09/2014/TT-NHNN có khả năng chuyển thành nợ xấu, thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam luôn cao hơn con số tỷ lệ nợ xấu nội bảng công bố định kỳ trên trang web NHNN.

Cũng cần biết rằng đối với các TCTD yếu kém, thuộc diện tái cơ cấu hoặc vẫn chưa chuyển đúng nhóm nợ hoặc được phép chuyển nhóm và thoái thu lãi, trích lập dự phòng dần trong khoảng thời gian 5-10 năm theo đề án tái cơ cấu. Điều này nhằm tránh việc một khoản vay của khách hàng nếu bị một ngân hàng chuyển nhóm trên CIC, thì các khoản vay còn lại đang ở những TCTD khác cũng bị chuyển lên nhóm cao nhất theo quy định , mà có thể đẩy tỷ lệ nợ xấu toàn ngành lên cao hơn. Do đó, nếu tính đầy đủ luôn số nợ xấu này thì con số cũng có thể cao hơn.

Một vấn đề cũng cần phải lường trước, là các khoản vay có thể đánh giá bằng phương pháp định tính, để xác định nợ xấu liệu đã được ghi nhận hay chưa. Ngoài ra, nguy cơ nợ xấu mới đang tăng nhanh hơn, thể hiện qua số liệu hoạt động gần đây của các ngân hàng cũng gây không ít lo ngại. Lý giải về việc này, có ý kiến cho rằng năm nay cũng là thời hạn 5 năm mà những đợt trái phiếu đầu tiên do VAMC phát hành với số lượng lớn vào năm 2014 đến thời gian đáo hạn, theo đó nhiều nhà băng cũng bắt đầu mua lại những khoản nợ này, và đưa lại vào bảng cân đối của các ngân hàng nên đẩy nợ xấu tăng vọt.

Dù vậy, cần lưu ý rằng với quy mô tín dụng đã tăng mạnh trong 3 năm qua, nên dĩ nhiên số nợ xấu tuyệt đối mới phát sinh cũng theo đó tăng lên là tất yếu, nhất là khi thời gian qua các ngân hàng vẫn đẩy mạnh rót vốn vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán, cho vay tiêu dùng, các dự án BOT, BT….

Cũng theo số liệu cập nhật mới nhất từ NHNN, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, bao gồm cả mục đích kinh doanh và mục đích tự sử dụng, đến cuối tháng 8/2019 tăng 14.58% so với cuối năm 2018, chiếm 19.14% tổng dư nợ nền kinh tế, tương đương 1.5 triệu tỷ đồng; lĩnh vực đầu tư, kinh doanh chứng khoán tăng 8.7%, chiếm 0.4%; tín dụng phục vụ nhu cầu đời sống tăng 13.92%, chiếm 20.69%.

Như vậy, dù NHNN thời gian qua liên tiếp có những chính sách hạn chế dòng vốn tín dụng rót vào các lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán và cho vay tiêu dùng, thì thực tế là dư nợ ở những lĩnh vực trên vẫn tiếp tục xu hướng tăng lên, trong đó tín dụng đổ vào lĩnh vực bất động sản đang dẫn đầu đà tăng trưởng và cao hơn gấp rưỡi so với tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Trong trường hợp các kênh đầu tư này, vẫn ổn định thì không có vấn đề gì, nhưng nếu thị trường bị đóng băng, suy giảm trở lại thì rủi ro nợ xấu ngân hàng gia tăng là tất yếu.

Một ví dụ cụ thể là với lĩnh vực cho vay các dự án BOT, BT mà NHNN đã từng cảnh báo từ cách đây 2 năm, thì mới đây theo báo cáo Thống đốc Lê Minh Hưng gửi đến các đại biểu Quốc hội, người đứng đầu NHNN đã bày tỏ lo ngại khi có nhiều dự án BOT, BT giao thông đã hoàn thành, đi vào khai thác có doanh thu không đạt như phương án tài chính ban đầu, với dư nợ khoảng 53,000 tỷ đồng có nguy cơ phải cơ cấu nợ, phát sinh nợ xấu cho các NHTM.

Tổng kiểm toán Nhà nước mới đây cũng công bố kế hoạch trong năm 2020 sẽ kiểm toán các ngân hàng lớn, để xác định thực trạng sở hữu chéo và nợ xấu, đặc biệt là việc triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu và kiểm soát, nâng cao chất lượng tín dụng. Quá khứ cho thấy các đợt thanh tra toàn diện như trên đã hé lộ không ít nhà băng có nợ xấu thực tế cao hơn nhiều so với con số đã báo cáo.


Đối với các TCTD yếu kém, thuộc diện tái cơ cấu hoặc vẫn chưa chuyển đúng nhóm nợ, hoặc được phép chuyển nhóm và thoái thu lãi, trích lập dự phòng dần trong khoảng thời gian 5-10 năm theo đề án tái cơ cấu. Điều này, nhằm tránh việc một khoản vay của khách hàng nếu bị một ngân hàng chuyển nhóm trên CIC, thì các khoản vay còn lại đang ở những TCTD khác, cũng bị chuyển lên nhóm cao nhất theo quy định , mà có thể đẩy tỷ lệ nợ xấu toàn ngành lên cao hơn.

Nhung Võ

Bình luận mới nhất

Cài Đặt Ứng Dụng của Chúng Tôi
Công Bố Rủi Ro: Giao dịch các công cụ tài chính và/hoặc tiền điện tử tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư. Giá cả tiền điện tử có độ biến động mạnh và có thể chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài như các sự kiện tài chính, pháp lý hoặc chính trị. Việc giao dịch theo mức ký quỹ gia tăng rủi ro tài chính.
Trước khi quyết định giao dịch công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần nắm toàn bộ thông tin về rủi ro và chi phí đi kèm với việc giao dịch trên các thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, mức độ kinh nghiệm, khẩu vị rủi ro và xin tư vấn chuyên môn nếu cần.
Fusion Media xin nhắc bạn rằng dữ liệu có trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ thị trường hay sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường, vì vậy, giá cả có thể không chính xác và có khả năng khác với mức giá thực tế tại bất kỳ thị trường nào, điều này có nghĩa các mức giá chỉ là minh họa và không phù hợp cho mục đích giao dịch. Fusion Media và bất kỳ nhà cung cấp dữ liệu nào có trên trang web này đều không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Fusion Media và/hoặc nhà cung cấp. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.
Fusion Media có thể nhận thù lao từ các đơn vị quảng cáo xuất hiện trên trang web, dựa trên tương tác của bạn với các quảng cáo hoặc đơn vị quảng cáo đó.
Phiên bản tiếng Anh của thỏa thuận này là phiên bản chính, sẽ luôn được ưu tiên để đối chiếu khi có sự khác biệt giữa phiên bản tiếng Anh và phiên bản tiếng Việt.
© 2007-2024 - Công ty TNHH Fusion Media. Mọi quyền được bảo hộ.