Mảng may mặc
Hoạt động sản xuất và XK mảng may mặc tăng trưởng tốt trong 8T. Trong 8T2022, tổng giá trị XK hàng dệt may VN ước đạt hơn 26 tỷ USD (+23.1% CK). Trong đó, XK vào các thị trường chính tăng mạnh: Mỹ (+22.5% CK), EU (+36% CK), Nhật (+21.9% CK), Hàn Quốc (+20.5% CK), Canada (+48.5% CK). Thị phần hàng thời trang, quần áo VN tại các TT chính nhìn chung duy trì ổn định và cải thiện. Trong đó, TT Mỹ (từ 17.6% lên 18.5%), Nhật (từ 14.1% lên 15%), EU (từ 6.1% lên 6.3%) và chỉ riêng Hàn Quốc ghi nhận giảm từ 31.8% xuống 29.3%.
Hoạt động sản xuất ở mảng may mặc tiếp tục ghi nhận tín hiệu tăng trưởng tốt. Trong T8, IIP mảng may mặc tiếp tục tăng trưởng 2 con số, ước đạt +28.2% CK và tiếp tục chuỗi tăng trưởng mạnh từ cuối Q3 2021. Hệ số sử dụng lao động mảng may mặc tính đến đầu T8 ước tăng 18.8% CK, qua đó ghi nhận phục hồi hầu như hoàn toàn sau khi bị ảnh hưởng bởi đợt giãn cách Q3 2021 (giảm 14.1% CK trong T9 2021).
Mảng sợi
XK ở mảng Sợi trong 8T2022 ghi nhận suy giảm với tổng khối lượng và giá trị XK ước đạt lần lượt 1.08 triệu tấn (-17.8% CK) và 3.4 tỷ USD (-5.6% CK). Trong đó, XK sợi sang 2 TT chính là Trung Quốc và Hàn Quốc ước đạt lần lượt 1.6 tỷ USD (-16.7% CK) và 343 triệu USD (đi ngang). Một số TT khác ghi nhận mức tăng tốt như EU (+37% CK), Nhật (+30% CK), Mỹ (+64% CK).
Hoạt động sản xuất mảng Dệt trong nước ghi nhận hồi phục nhẹ. Cụ thể, IIP mảng dệt 8T2022 ước tính ở mức +5.1% CK (tăng nhẹ so với mức tăng +4.0% CK trong 7T). Số liệu chính thức trong T7 cho thấy IIP mảng dệt ghi nhận tăng 5.1% CK.
Triển vọng Q3 và năm 2022
Nhu cầu hàng may mặc ở các TT chính duy trì ổn định bên cạnh tăng trưởng ở các TT mới: Trong bối cảnh lạm phát ở các TT chính ghi nhận mức tăng cao, bán lẻ hàng thời trang tại các TT XK chính của VN vẫn duy trì tăng trưởng so với cùng kỳ. Cụ thể, trong T6, tăng trưởng giá trị bán lẻ ở Mỹ (+0.9% CK), Nhật (+1.2% CK), Hàn Quốc (+8.2% CK), Canada (+19.8% CK) tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng dương. Kinh tế tại các TT XK chính dự báo vẫn tiếp tục tăng trưởng, dù mức tăng trưởng dự phóng được điều chỉnh giảm. Cụ, thể, theo dự phóng vào T6 của World Bank, tăng trưởng GDP năm 2022 của Mỹ dự phóng đạt 2.5%, EU: 2.5%, Nhật Bản: 1.7%, TQ: 4.3%.
Các FTA tiếp tục hỗ trợ tích cực: bộ ba CPTPP, EVFTA và RCEP sẽ tiếp tục hỗ trợ XK hàng dệt may VN thông qua các cam kết ưu đãi thuế quan và các quy định về nguồn gốc xuất xứ. XK hàng dệt may VN tại các TT mới và được hưởng lợi từ CPTPP như Canada, Australia, Mexico đã ghi nhận tăng mạnh trong 8T2022, lần lượt +48.5% CK, +26.4% CK, và 93.9% CK. Bên cạnh đó, mức thuế nhập khẩu giảm dần theo lộ trình từ EVFTA tiếp tục hỗ trợ sức cạnh tranh của hàng VN tại TT này và giá trị XK hàng dệt may vào EU đã và đang tăng mạnh.
Chi phí NVL (HM:NVL) đầu vào và vận tải biển có xu hướng giảm. Giá cotton và dầu thô cuối Q3 ghi nhận xu hướng giảm dần sau khi đạt đỉnh trong Q2. Chỉ số giá vận tải container các tuyến chính cũng đã hạ nhiệt và đi ngang. Chi phí NVL và vận tải giảm là yếu tố hỗ trợ các công ty trong nước trong bối cảnh mức lương tối thiểu vùng chính thức tăng 6% từ đầu T7 2022. Ngoài ra, USD mạnh lên có thể ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận ngắn hạn trong năm 2022 khi ngành dệt may là ngành XK ròng.
Quan hệ thương mại Mỹ-Trung tiếp tục căng thẳng và Chính phủ Mỹ quyết định tiếp tục giữ nguyên các mức thuế áp vào hàng TQ mang đến lợi thế cho các nhà NK khác. Thị phần của hàng dệt may TQ tại TT Mỹ tiếp tục giảm trong năm 2022 về mức 24% (so với mức 28% và 36.6% năm 2021 và 2018).
Các rủi ro chính
Zero-COVID ở TQ: Việc TQ kiên trì tiếp tục áp dụng chính sách Zero-COVID và phong tỏa diện rộng có khả năng làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất dệt may, khiến nhu cầu về sợi suy giảm. Giá trị XK của mảng Sợi đã và đang chịu ảnh hưởng tiêu cực trong bối cảnh TT TQ chiếm 47% tổng giá trị XK sợi VN.
Hình 1. Tương quan tăng trưởng LNST 6T và TTM P/E một số công ty dệt may
Xem thêm tại đây