Theo Lan Nha
Investing.com – Nguy cơ vỡ nợ tại Mỹ, nói cách khác trần nợ là số tiền mà Quốc hội cho phép chính phủ Mỹ vay để đáp ứng các nghĩa vụ cơ bản của mình, từ cung cấp bảo hiểm y tế đến trả lương cho quân đội.
Mức trần tổng nợ hiện tại là 31,4 nghìn tỷ USD (117% GDP) và nước Mỹ đang quan tâm đến mức này. Vào ngày 1/5, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen đã cảnh báo, chính phủ sẽ cạn kiệt dự trữ tiền mặt và cả những lời biện hộ về ngân sách, ngay sau ngày 1/6.
Nếu nước Mỹ không trả được nợ, hàng loạt người sẽ mất việc làm, đẩy các khoản thanh toán hộ gia đình rơi vào bế tắc... Các doanh nghiệp nước này sẽ phải đối mặt với thị trường tín dụng xấu đi và chính phủ có thể sẽ không còn có thể cấp các khoản thanh toán cho các gia đình quân nhân và người cao tuổi sống dựa vào an sinh xã hội.
Một báo cáo mới công bố của Hội đồng Cố vấn kinh tế của Tổng thống Joe Biden cho biết, nếu Mỹ vỡ nợ dài hạn, hơn 8 triệu người có thể mất việc và một nửa giá trị thị trường chứng khoán có thể bị mất, nền kinh tế sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng.
Trong báo cáo này, Nhà Trắng chỉ ra 3 kịch bản có thể xảy ra với nền kinh tế Mỹ, bao gồm trường hợp tránh được vỡ nợ, vỡ nợ ngắn hạn và vỡ nợ kéo dài. Theo đó, ngay cả khi Mỹ không chịu cảnh vỡ nợ, khoảng 200.000 người vẫn bị mất việc làm và GDP trong năm vẫn bị suy giảm 0,3 điểm phần trăm. Đối với trường hợp vỡ nợ ngắn hạn, nền kinh tế sẽ mất khoảng nửa triệu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng 0,3 điểm phần trăm.
Sau cảnh báo từ bà Janet Yellen, Hạ viện Mỹ do phe Cộng hòa nắm thế đa số đã thông qua đề xuất tăng giới hạn nợ quốc gia, nhưng đi kèm với biện pháp cắt giảm mạnh chi tiêu của chính phủ - động thái vấp phải sự phản đối từ Tổng thống Joe Biden và phe Dân chủ - hiện đang kiểm soát Thượng viện.
Dù Tổng thống Joe Biden khẳng định sự cần thiết phải tăng giới hạn nợ của quốc gia, tuy nhiên, ông tuyên bố sẽ không đàm phán với phe Cộng hòa về biện pháp cắt giảm chi tiêu để ngăn chặn nguy cơ vỡ nợ.
Mỹ có thể vỡ nợ nếu cả hai đảng không đạt được thỏa thuận. Điều đó có khả năng dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính, gây thiệt hại cho sản lượng kinh tế và gây ra một cuộc suy thoái sâu sắc nếu đất nước không thể thanh toán tất cả các hóa đơn đúng hạn.
Tuy nhiên, việc Mỹ đứng bên bờ vực vỡ nợ không phải là vấn đề mới, điểm đáng chú ý là bối cảnh hiện nay ở nước Mỹ và các cuộc đàm phán giữa hai đảng được cho là khó khăn hơn để có thể đạt được một thỏa thuận về mức trần nợ công.
Giới chuyên gia cũng cho rằng, Mỹ cũng sẽ "như thường lệ", dù vẫn có nguy cơ vỡ nợ nhưng khả năng này không cao. Mọi kịch tính dồn đến đỉnh điểm rồi sẽ lại kết thúc bằng một mức trần nợ mới như nó vẫn xảy ra. Trong khi đó, tác động từ việc này có thể cũng không nghiêm trọng như những gì mà giới chức Mỹ cảnh báo.
Dù nghe có vẻ nghiêm trọng, nhưng trong lịch sử nước Mỹ, việc nâng trần nợ là một thủ tục tương đối thường xuyên đối với Quốc hội. Kể từ năm 1960, Quốc hội Mỹ đã tăng mức trần nợ 78 lần, với lần tăng gần đây nhất vào năm 2021, lên mức 31.400 tỷ USD như hiện nay.
Trong lịch sử, nước Mỹ cũng đã từng bị coi là vỡ nợ ít nhất 5 lần, gần đây nhất là năm 1979 khi chính phủ và Quốc hội tranh chấp nâng trần nợ công như hiện nay, khiến Bộ Tài chính không thể trả các khoản nợ đến hạn.
Hay nói cách khác, trên thực tế, những cảnh báo nghiêm trọng mà giới chức Mỹ đưa ra chỉ nhằm gây sức ép trong nội bộ, liên quan đến tranh cãi ngân sách là chính chứ không phải thực tế sẽ diễn ra như vậy. Tuy nhiên, đối với thế giới, tác động của việc Mỹ vỡ nợ sẽ như thế nào mới là câu hỏi được quan tâm lúc này.
Tại thời điểm này, Mỹ sẽ phải đối mặt với tình trạng vỡ nợ quốc gia hoặc cắt giảm mạnh chi tiêu chính phủ. Một trong hai “lựa chọn” này đều sẽ tác động rất lớn đến thị trường toàn cầu. Việc vỡ nợ sẽ làm xói mòn niềm tin vào hệ thống tài chính quan trọng nhất thế giới; còn nếu cắt giảm ngân sách lớn có thể gây ra một cuộc suy thoái sâu sắc.
Ngay cả khi Quốc hội có thể tăng trần nợ trước khi bất cứ điều gì nghiêm trọng xảy ra, thì thực trạng “bên bờ vực thảm họa” đã đủ cảnh báo về sự suy giảm sức khỏe tài chính của nền kinh tế có tầm ảnh hưởng nhất thế giới và là dấu hiệu rất khó phục hồi.
Trong trường hợp xấu nhất, nếu Mỹ thực sự rơi vào tình trạng vỡ nợ, dù là vỡ nợ kỹ thuật hay vỡ nợ trên lý thuyết là có thể xảy ra và việc này sẽ gây ra tác động lớn đến kinh tế Mỹ cũng như kinh tế thế giới với hậu quả chưa thể lường trước. Các tác động từ việc vỡ nợ sẽ ảnh hưởng trước hết đến nước Mỹ sau đó là nền kinh tế toàn cầu và cuối cùng là ảnh hưởng đến các nền kinh tế khác, đặc biệt là các nền kinh tế đang phát triển có nợ công cao.
Vì Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và hơn một nửa số dự trữ ngoại tệ của thế giới là đồng USD nên bất kỳ tác động nào đến niềm tin vào nền kinh tế Mỹ, cho dù do vỡ nợ hay mất ổn định, rơi vào suy thoái đều có thể khiến các nhà đầu tư bán trái phiếu kho bạc Mỹ và do đó làm suy yếu đồng USD. Việc giá trị của đồng tiền này giảm đột ngột sẽ khiến các nền kinh tế kém và đang phát triển có nợ công cao phải trả nợ nhiều hơn, các khoản nợ bằng ngoại tệ khác cũng tăng lên khiến các nước này đứng trước nguy cơ khủng hoảng nợ.
Đối với giới đầu tư và các nước đang nắm giữ trái phiếu dài hạn chính phủ Mỹ, nếu chính phủ Mỹ vỡ nợ, thì các trái phiếu này sẽ mất giá nghiêm trọng, kéo theo giá trị tài sản của các bên nắm giữ thông qua trái phiếu Mỹ vì vậy cũng giảm theo. Ngoài ra, số tiền phải trả cho bảo hiểm vỡ nợ trái phiếu dài hạn chính phủ Mỹ hiện đang ở mức 0,34%, tăng gần gấp đôi so với mức 0,2% từ đầu năm, có thể tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới.