🔥 Chinh phục thị trường với công cụ chọn cổ phiếu có AI hỗ trợ của InvestingPro – HIỆN GIẢM tới 50% NHẬN ƯU ĐÃI

Tỷ lệ LDR của nhà băng thay đổi ra sao trong năm 2018?

Ngày đăng 15:24 28/02/2019
Tỷ lệ LDR của nhà băng thay đổi ra sao trong năm 2018?
ACB
-
CTG
-

Vietstock - Tỷ lệ LDR của nhà băng thay đổi ra sao trong năm 2018?

Tính đến cuối năm 2018, tăng trưởng tín dụng tăng thấp hơn các năm trước. Điều này ảnh hưởng như thế nào đến tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động (LDR) cũng như tình hình thanh khoản của các nhà băng?

Các “ông lớn” Nhà nước dẫn đầu lượng tiền gửi khách hàng

Không thể phủ nhận niềm tin của người dân đối với các “ông lớn” gốc Nhà nước, mặc dù lãi suất huy động của những nhà băng này thường nằm ở chiếu dưới.

Theo thống kê của Vietstock dựa trên 23 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý 4/2018, BIDV (BID) đã vượt mặt 2 đàn anh chiếm giữ vị trí ngân hàng có lượng tiền gửi khách hàng lớn nhất với 989,671 tỷ đồng. Nối tiếp sau đó hiển nhiên là VietinBank (CTG) và Vietcombank (HM:CTG) (VCB) theo thứ tự chiếm giữ 825,816 tỷ đồng và 802,223 tỷ đồng.

Mặc dù cách khá xa nhóm “ông lớn”, nhưng ghi nhận 349,197 tỷ đồng, Sacombank (STB) vẫn nghiễm nhiên dẫn đầu trong nhóm nhà băng “tư nhân”.

Tổng lượng tiền gửi khách hàng của 23 ngân hàng thương mại tính đến 31/12/2018 đạt hơn 4.8 triệu tỷ đồng, như vậy so với con số hơn 4.3 triệu tỷ đồng hồi đầu năm đã tăng 12%. Tốc độ tăng trưởng tiền gửi khách hàng của các ngân hàng khoảng 10 - 28% so với đầu năm. Trong đó tăng trưởng cao nhất là VPB (28%). Chỉ duy nhất 2 ngân hàng đi ngược xu hướng suy giảm nhẹ lượng tiền gửi khách hàng là SGB (-1%) và LPB (-3%).

Tuy nhiên, chỉ có 2/23 ngân hàng hoàn thành kế hoạch tiền gửi khách hàng là VIB (103% và Vietbank (100%).

Lượng tiền gửi khách hàng của các ngân hàng năm 2018 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance

Về tình hình cho vay khách hàng, tính đến 31/12/2018, chỉ có 10/23 ngân hàng hoàn thành kế hoạch cho vay khách hàng năm 2018. Điều đáng chú ý là trong 10 nhà băng này chỉ có 1 đại diện “Nhà nước” là VCB (101%), còn lại là Vietbank (111%), TPBank (TPB, 103%), STB (102%), MSB (101%), LPB (101%), MBB (101%), ACB (HN:ACB) (101%), BAB (100%) và VietABank (100%).

Tổng dư nợ cho vay khách hàng của 23 ngân hàng thương mại tính đến 31/12/2019 đạt gần 4.5 triệu tỷ đồng, tăng hơn 14% so với dư nợ hơn 3.9 triệu tỷ đồng hồi đầu năm. Tăng trưởng dư nợ cho vay của các ngân hàng nhỉnh hơn một xíu so với tăng trưởng huy động vốn vào khoảng 11-35% so với đầu năm. Tăng trưởng cao nhất là MSB đạt 35% so với đầu năm.

SGB có thể được xem là nhà băng sụt giảm cả huy động vốn và dư nợ cho vay khách hàng.

Xét về số tuyệt đối, 3 ông lớn BID, CTG và VCB vẫn dẫn đầu ngành về dư nợ cho vay, đạt lần lượt 988,739 tỷ đồng, 864,926 tỷ đồng và 632,633 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần còn lại đạt dư nợ từ 100,000 – 300,000 tỷ đồng như STB, ACB, VPB, MBB, TCB, HDB, LPB và EIB.

Dư nợ cho vay khách hàng của các ngân hàng năm 2018 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance

Tín dụng tăng thấp hơn các năm trước

Theo Báo cáo Tổng quan thị trường tài chính năm 2018 của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBGSTCQG), thanh khoản của hệ thống TCTD vẫn được đảm bảo mặc dù kém dồi dào hơn vào cuối năm.

Nguồn vốn huy động toàn hệ thống ước tăng tương đương năm 2017. Hệ số LDR khoảng 87.5%, năm 2017 là 87.8%. Trong nửa đầu năm 2018, thanh khoản hệ thống TCTD khá dồi dào do được hỗ trợ từ việc NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ. Tuy nhiên, từ cuối tháng 7/2018, thanh khoản kém dồi dào hơn chủ yếu do áp lực từ phía tỷ giá và nhu cầu về vốn cuối năm tăng cao.

Trong khi đó, nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng trưởng ổn định so với năm 2017. Vốn huy động ước tăng 15% so với năm 2017. Huy động vốn ngoại tệ tăng mạnh, tăng khoảng 17% (năm 2017: 2.1%), chiếm 9.9% tổng vốn huy động. Vốn huy động VND tăng khoảng 14.3%, chiếm 90.1% tổng vốn huy động.

Nhìn chung, thanh khoản của hệ thống TCTD ổn định, do vốn huy động tăng trưởng ổn định trong khi tín dụng tăng thấp hơn so với các năm trước. Cuối năm 2018, tỷ lệ tín dụng/huy động (LDR) bình quân của hệ thống là khoảng 87.5% (năm 2017: 87.8%). Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung và dài hạn bình quân giảm xuống còn 28.7% (năm 2017: 30.4% ). Các NHTM chủ động cơ cấu lại kỳ hạn huy động và cho vay để đáp ứng tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn dưới 40% từ 1/1/2019.

Tỷ lệ LDR của toàn hệ thống TCTD (Đvt: %)
Nguồn: NHNN

Còn theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động (LDR) bình quân của hệ thống các TCTD giảm từ mức 90.23% cuối năm 2017 xuống mức 88.74% thời điểm kết thúc tháng 11/2018.

Tỷ lệ LDR càng cao thì khả năng sinh lời của ngân hàng càng lớn, nhưng đánh đổi lại rủi ro thanh khoản cũng cao hơn. Hiện tỷ lệ LDR ở nhóm các NHTM Nhà nước đã vượt trần 90%, ghi nhận mức 95.08% (tháng 11/2018), trong khi ở nhóm các NHTM cổ phần cũng đã vượt trần 80%, ghi nhận 83.63%.

Việc tỷ lệ LDR tăng liên tiếp trong 6 tháng cuối năm 2018, có nguyên nhân quan trọng đến từ việc các ngân hàng thúc đẩy tăng trưởng tín dụng những tháng cuối năm nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm.

Nguồn: NHNN
Tỷ lệ LDR tại các ngân hàng năm 2018 (Đvt: %)
(*) LDR tính trên dư nợ cho vay khách hàng và tiền gửi khách hàng theo BCTC các ngân hàng

Theo lý thuyết, tỷ lệ LDR dưới 100% cũng có nghĩa là lượng vốn cho vay ra đang thấp hơn lượng vốn huy động vào. Dựa vào số liệu thu thập tại 23 ngân hàng, có 6/23 ngân hàng có lượng vốn cho vay tăng cao hơn lượng vốn huy động.

Nhưng thực tế nguồn vốn huy động của các ngân hàng rất đa dạng. Ngoài vốn huy động trên thị trường 1, một số ngân hàng còn có thể huy động vốn trực tiếp từ các tổ chức tài chính nước ngoài thông qua các chương trình tín dụng, hoặc nguồn vốn trực tiếp từ nước ngoài nhưng thông qua mở L/C… những nguồn vốn này ngân hàng có thể chủ động được đầu vào và thường ổn định nên nếu lượng vốn sử dụng tăng lên, chỉ số LDR có thể cao hơn nhưng nhà băng vẫn đảm bảo được thanh khoản.

Cát Lam

Bình luận mới nhất

Cài Đặt Ứng Dụng của Chúng Tôi
Công Bố Rủi Ro: Giao dịch các công cụ tài chính và/hoặc tiền điện tử tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư. Giá cả tiền điện tử có độ biến động mạnh và có thể chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài như các sự kiện tài chính, pháp lý hoặc chính trị. Việc giao dịch theo mức ký quỹ gia tăng rủi ro tài chính.
Trước khi quyết định giao dịch công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần nắm toàn bộ thông tin về rủi ro và chi phí đi kèm với việc giao dịch trên các thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, mức độ kinh nghiệm, khẩu vị rủi ro và xin tư vấn chuyên môn nếu cần.
Fusion Media xin nhắc bạn rằng dữ liệu có trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ thị trường hay sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường, vì vậy, giá cả có thể không chính xác và có khả năng khác với mức giá thực tế tại bất kỳ thị trường nào, điều này có nghĩa các mức giá chỉ là minh họa và không phù hợp cho mục đích giao dịch. Fusion Media và bất kỳ nhà cung cấp dữ liệu nào có trên trang web này đều không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Fusion Media và/hoặc nhà cung cấp. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.
Fusion Media có thể nhận thù lao từ các đơn vị quảng cáo xuất hiện trên trang web, dựa trên tương tác của bạn với các quảng cáo hoặc đơn vị quảng cáo đó.
Phiên bản tiếng Anh của thỏa thuận này là phiên bản chính, sẽ luôn được ưu tiên để đối chiếu khi có sự khác biệt giữa phiên bản tiếng Anh và phiên bản tiếng Việt.
© 2007-2024 - Công ty TNHH Fusion Media. Mọi quyền được bảo hộ.