Thiết kế thuế thu nhập cá nhân: kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam

Ngày đăng 15:58 15/08/2025
Thiết kế thuế thu nhập cá nhân: kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam

Vietstock - Thiết kế thuế thu nhập cá nhân: kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam

Ngày 17-7-2025, Bộ Tài chính đã chính thức gửi văn bản lấy ý kiến với một hồ sơ dự án luật được chờ đợi từ lâu - Luật Thuế thu nhập cá nhân (thay thế). Tuy nhiên, một điểm khá đáng tiếc là hồ sơ chưa bao gồm một báo cáo riêng về tổng hợp kinh nghiệm quốc tế - một tài liệu tham chiếu quan trọng trong xây dựng chính sách.

Người dân nộp thuế thu nhập cá nhân. Ảnh minh họa: TL

Báo cáo của OECD về đánh thuế thu nhập từ lương

Hàng năm, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đều phát hành báo cáo Taxing Wages, cung cấp phân tích về thuế thu nhập cá nhân (PIT) và đóng góp an sinh xã hội (SSC) tại các nước thành viên và một số đối tác. Chỉ số trung tâm của báo cáo là tax wedge, phản ánh tỷ lệ phần thu nhập không nhận được (tức PIT + SSC - tiền hỗ trợ nhận được) so với tổng chi phí lao động của doanh nghiệp.

Theo báo cáo năm 2025, nhóm lao động độc thân thu nhập trung bình có tỷ lệ tax wedge năm 2024 là 34,9% (trong đó, riêng thuế là 25%), tăng liên tục trong ba năm: 2024 (+0,05 điểm phần trăm), 2023 (+0,15 điểm phần trăm) và năm 2022 (+0,12 điểm phần trăm). Ngược lại, tỷ lệ tax wedge giảm ở các nhóm gia đình có con - cụ thể, giảm tại 20 nước trở lên ở ba trong bốn nhóm được khảo sát. Nguyên nhân giảm, ngoài các thay đổi chung về PITSSC, còn gồm việc tăng các hỗ trợ bằng tiền và giảm trừ cho con cái phụ thuộc. Báo cáo này cũng cho thấy, tính trong cả giai đoạn 25 năm qua (2000-2024), tỷ lệ tax wedge giảm thấp nhất 1,3 điểm phần trăm ở nhóm độc thân thu nhập trung bình đến cao nhất 3 điểm phần trăm ở nhóm bố/mẹ đơn thân kiếm được 67% thu nhập trung bình.

Báo cáo Taxing Wages năm 2025 có một chuyên đề đặc biệt về phân tích cấu phần của thuế thu nhập cá nhân (TNCN), tập trung vào các khoản miễn giảm (tax relief) gồm hai loại chính: (i) giảm trừ thuế (tax credit) và (ii) giảm trừ thu nhập (tax allowance). Tổng quan, khi so sánh hai khoản này với thu nhập thực nhận (net income), giảm trừ thu nhập tác động nhiều hơn đối với người độc thân, trong khi giảm trừ thuế lại hỗ trợ hiệu quả hơn cho nhóm bố/mẹ đơn thân thu nhập thấp. Báo cáo cũng chỉ ra rằng việc loại bỏ giảm trừ thuế có thể làm giảm tính lũy tiến của thuế (tức làm giảm khả năng đánh thuế cao hơn vào nhóm thu nhập cao) cao hơn so với giảm trừ thu nhập.

Trong giai đoạn 2020-2024, tổng thu thuế TNCN tăng 72%, cao gấp đôi mức tăng của thu nhập bình quân đầu người, là 30,2% (theo VOV), cho thấy dấu hiệu rõ của hiện tượng “fiscal drag” - thuế kìm hãm thu nhập thực - tại Việt Nam.

Thực tế, tại một số nước, các khoản giảm trừ thu nhập được thiết kế tăng theo thu nhập như phần SSC do nhân viên đóng hoặc giảm trừ tính theo lương (ví dụ một tháng lương tại Costa Rica hoặc 10% thu nhập tại Pháp) còn làm giảm tính lũy tiến của thuế TNCN (tức giúp người có thu nhập cao hơn chịu thuế suất thấp hơn). Ngược lại, tại các nước đã có thiết kế giảm trừ giảm dần theo thu nhập thì việc loại bỏ chúng cũng khiến hệ thống thuế bớt lũy tiến hơn.

Trước đó, trong bối cảnh lạm phát cao năm 2022, báo cáo Taxing Wages năm 2023 lại bàn về vấn đề “fiscal drag” - lực cản tài khóa (về thuế), kéo giảm thu nhập thực tế của người dân khi họ bị đẩy vào các mức thuế cao hơn do lương danh nghĩa (nomial wage) tăng nhưng các ngưỡng thuế không được điều chỉnh theo lạm phát. Bên cạnh đó, các khoản miễn giảm thuế (thường hướng tới đối tượng thu nhập thấp) cũng trở nên ít giá trị hơn nếu không được điều chỉnh theo lạm phát.

Các nước có thể giảm thiểu tác động của hiện tượng fiscal drag bằng việc điều chỉnh các giá trị tính thuế theo chỉ số tham chiếu (indexation). Các cách thức indexation tại OECD khá đa dạng: 17 nước điều chỉnh tự động (hầu hết vào đầu mỗi năm) trong khi 21 nước chỉ thay đổi theo quyết định từng lần; lần lượt 15 và hai nước điều chỉnh theo giá cả và theo lương trong khi 18 nước không dùng một tham chiếu cụ thể nào; hơn 50% nước điều chỉnh theo giá trị tham chiếu được ghi nhận năm trước (T-1, T-2). Báo cáo cho thấy, trong thời kỳ lạm phát cao, các nước OECD dễ bị tác động bởi fiscal drag, đặc biệt dễ tổn thương là nhóm cha/mẹ đơn thân thu nhập thấp, từ đó báo cáo nêu bật vai trò quan trọng của việc điều chỉnh các giá trị tính thuế theo biến động vĩ mô.

Xu hướng điều chỉnh chính sách thuế

Hàng năm, OECD cũng phát hành ấn phẩm Cải cách chính sách thuế (OECD Tax Policy Reforms), cung cấp cái nhìn tổng quan về xu hướng thuế tại các nước OECD/G20. Đặc biệt, báo cáo năm 2024 còn tổng hợp khảo sát 90 thành viên thuộc khuôn khổ tổng thể của OECD/G20 về chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS).

Phân tích giai đoạn 2015-2023 với các nước thu nhập cao, báo cáo cho thấy các cải cách về PITSSC đã diễn ra theo hướng giảm thuế với tác động đến ngân sách lớn hơn hẳn các sắc thuế khác. Đặc biệt, giảm thuế TNCN là công cụ quan trọng để hỗ trợ cho các hộ gia đình trong giai đoạn đại dịch Covid-19 (năm 2020-2021). Tuy nhiên, các nước thu nhập cao vẫn đưa ra các biện pháp miễn giảm thuế TNCN, dù thắt chặt hơn, đến tận hai năm sau (2022-2023). Trong khi đó, SSC và các sắc thuế khác (CIT, VAT) đều đã tăng lại. Đáng chú ý, PITSSC là nguồn thu chủ yếu tại hầu hết các nước OECD và thu nhập cao, trong khi chỉ chiếm tỷ lệ thấp trong thu ngân sách tại các nước thu nhập thấp và trung bình.

Về các cải cách thuế cụ thể, với thuế suất, xu hướng nổi bật là giảm thuế suất cho nhóm thu nhập thấp, đồng thời một số nước tăng thuế suất cao nhất nhằm tăng thu ngân sách và nâng cao tính lũy tiến.

Với cơ sở thuế, các biện pháp thu hẹp cơ sở thuế tiếp tục vượt xa các biện pháp mở rộng. Các biện pháp mở rộng chủ yếu là thu hồi các ưu đãi thuế trong đại dịch (thay vì giảm tần suất mở rộng như trước đó). Trong khi đó, các biện pháp thu hẹp cơ sở thuế được ban hành với nhiều mục đích khác nhau: chủ yếu tập trung vào hỗ trợ đối tượng thu nhập thấp và trung bình, bên cạnh đó là khuyến khích đầu tư và tạo việc làm trong các lĩnh vực về đổi mới hoặc có tính chiến lược, giải quyết một số thách thức cụ thể - đặc biệt là vấn đề nhà ở. Các biện pháp thu hẹp khá đa dạng như: tăng các mức giảm trừ thu nhập theo lạm phát hoặc hỗ trợ người thu nhập thấp, bổ sung các khuyến khích cho việc làm và một số ngành cụ thể, bổ sung các khoản hỗ trợ gia đình, tăng khoản giảm trừ cho người già và người khuyết tật... Trước đó, báo cáo năm 2023 cũng ghi nhận xu hướng cải cách tương tự.

Năm 2022, OECD cũng công bố báo cáo Cải cách chính sách thuế tại các nước thu nhập thấp và trung bình (Tax Policy Reforms in Low- and Middle-Income Countries). Báo cáo cho thấy nhiều quốc gia thu nhập trung bình cũng thu hẹp cơ sở thuế TNCN, bao gồm các hình thức như tăng các ngưỡng trong biểu thuế, tăng các khoản giảm trừ, bổ sung cơ chế miễn thuế. Khi so sánh với các nước thu nhập cao, có thể thấy điểm chung của hai nhóm là điều chỉnh cơ sở thuế phổ biến hơn điều chỉnh thuế suất.

Ngoài ra, theo báo cáo Thuế thu nhập cá nhân tại châu Á - Thái Bình Dương: Định hướng tương lai (Personal Income Taxation in Asia and the Pacific: Future Directions) năm 2025 của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), khả năng tái phân phối thu nhập phụ thuộc không chỉ vào tính lũy tiến của biểu thuế mà còn bị ảnh hưởng bởi mức thuế trung bình. Các thị trường mới nổi ghi nhận khả năng tái phân phối giảm nhẹ, là kết quả tổng hợp của tính lũy tiến giảm và thuế suất tăng nhẹ. Riêng khu vực châu Á - Thái Bình Dương được đánh giá có mức độ tái phân phối khiêm tốn, chủ yếu do thuế suất tương đối thấp. Theo đó, ADB gợi ý một số ưu tiên trong chính sách thuế để tăng tính lũy tiến đồng thời với tăng thu ngân sách.

Gợi ý cho chính sách thuế TNCN của Việt Nam

Từ các thông lệ và xu hướng chính sách nêu trên, có thể rút ra một số gợi ý cho Việt Nam như sau:

Thứ nhất, cần đánh giá chính sách thuế TNCN trong thời gian qua theo các chỉ tiêu định lượng cụ thể tương ứng với các mục tiêu chính sách (như về tính công bằng, khả năng điều tiết thu nhập hợp lý), từ đó thực hiện so với các nước khác tương đồng (về mức độ phát triển, đặc điểm kinh tế - xã hội...) cũng như các nước phát triển hơn để đánh giá thực trạng và đặt ra các mục tiêu cải thiện. Việt Nam hiện chưa tính toán các chỉ số như tax wedge, thuế suất trung bình, thuế suất biên theo mức thu nhập để đánh giá tính hợp lý của biểu thuế, mức độ lũy tiến và tác động đến quyết định lao động, đầu tư, cũng như dịch chuyển nhân lực quốc tế. Việc bổ sung các chỉ tiêu này là cơ sở cần thiết để xây dựng biểu thuế phù hợp, đảm bảo công bằng và cạnh tranh của hệ thống thuế, đồng thời tuân thủ quy định ưu tiên sử dụng định lượng trong đánh giá tác động của chính sách (theo điều 14 Nghị định 78/2025/NĐ-CP).

Thứ hai, để tăng tính lũy tiến của thuế TNCN, Việt Nam có thể nghiên cứu bổ sung các khoản giảm trừ thuế trực tiếp (tax credit) có hiệu quả hơn so với giảm trừ thu nhập (tax allowance). Hiện nay, Việt Nam chưa có bất kỳ khoản giảm trừ thuế nào cho các đối tượng nộp thuế bình thường (chỉ có các khoản giảm thuế cho đối tượng gặp khó khăn, không có khả năng nộp). ADB khuyến nghị áp dụng các khoản giảm trừ thuế có hoàn lại (người nộp thuế được trả thêm nếu tiền giảm trừ lớn hơn tiền thuế) đối với lao động thu nhập thấp để vừa tăng công bằng, vừa khuyến khích gia nhập thị trường lao động. Một số nước phát triển đang áp dụng công cụ này (thường được gọi là Earned Income Tax Credit (EITC)) như Mỹ, Anh, Canada, Hàn Quốc.

Thứ ba, đảm bảo hỗ trợ đúng đối tượng bằng các khoản miễn giảm có mục tiêu. Các khoản miễn giảm nên tập trung vào nhóm thu nhập thấp hoặc dễ tổn thương hơn là áp dụng chung cho mọi đối tượng. Tại Việt Nam, các khoản giảm trừ là cố định hoặc tỷ lệ thuận với thu nhập nên không hỗ trợ cho tính lũy tiến của thuế. Dự thảo Luật Thuế TNCN (thay thế) dự kiến bổ sung hai khoản giảm trừ thu nhập về y tế và giáo dục - đào tạo với mức tối đa do Chính phủ quy định. Do các nhóm thu nhập cao có thể tận dụng tốt các ưu đãi này hơn, Việt Nam cần thận trọng khi thiết kế chính sách để đảm bảo nhóm thu nhập thấp có thể áp dụng giảm trừ. Bên cạnh đó, để giảm trừ hướng đích hơn, có thể tăng mức giảm trừ cho các đối tượng ưu tiên như nhóm gia đình trẻ (để khuyến khích kết hôn) hoặc có người phụ thuộc là người cao tuổi, trẻ nhỏ (phục vụ mục tiêu dân số).

Thứ tư, để tránh hiện tượng thuế kìm hãm thu nhập thực (hiện tượng fiscal drag), Việt Nam nên nghiên cứu cơ chế điều chỉnh theo lạm phát đối với các giá trị trong tính thuế (gồm cả bậc trong biểu thuế và tiền giảm trừ gia cảnh). Hiện nay, Việt Nam mới chỉ quy định điều chỉnh giảm trừ gia cảnh khi CPI tăng hơn 20% trong khi các bậc thuế được giữ nguyên từ năm 2009 đến nay. Trong giai đoạn 2020-2024, tổng thu thuế TNCN tăng 72%, cao gấp đôi mức tăng của thu nhập bình quân đầu người, là 30,2% (theo VOV ), cho thấy dấu hiệu rõ của hiện tượng “fiscal drag” tại Việt Nam. Do đó, giá trị đầu - cuối của các bậc thuế cũng cần được điều chỉnh theo lạm phát. Luật Thuế TNCN có thể không quy định cụ thể về việc điều chỉnh nhưng cần đưa ra các nguyên tắc (như về định kỳ rà soát, chỉ số/thời kỳ tham chiếu...).

Thứ năm, mục tiêu công bằng và tăng thu có thể đồng thời đạt được bằng việc giảm thuế đối với nhóm thu nhập thấp và bù đắp bằng việc tăng thuế với nhóm thu nhập cao (đặc biệt là nhóm siêu giàu). Đây là thực tế được quan sát tại các nước OECD trong các năm 2022-2023 với các điều chỉnh về cả thuế suất và cơ sở thuế. Hiện nay, Việt Nam đang quy định thuế suất tăng đều giữa các bậc (theo bước tăng 5%) và có thể điều chỉnh theo hướng giảm ở bậc thấp/tăng ở bậc cao trong Luật Thuế TNCN mới. Bên cạnh đó, điều chỉnh các ngưỡng thuế ở bậc thấp và giảm trừ gia cảnh trong luật mới cũng cần đảm bảo thực chất, tức là mức tăng phải lớn hơn lạm phát.

Thái Mạnh Cường

Bình luận mới nhất

Cài Đặt Ứng Dụng của Chúng Tôi
Công Bố Rủi Ro: Giao dịch các công cụ tài chính và/hoặc tiền điện tử tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư. Giá cả tiền điện tử có độ biến động mạnh và có thể chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài như các sự kiện tài chính, pháp lý hoặc chính trị. Việc giao dịch theo mức ký quỹ gia tăng rủi ro tài chính.
Trước khi quyết định giao dịch công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần nắm toàn bộ thông tin về rủi ro và chi phí đi kèm với việc giao dịch trên các thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, mức độ kinh nghiệm, khẩu vị rủi ro và xin tư vấn chuyên môn nếu cần.
Fusion Media xin nhắc bạn rằng dữ liệu có trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ thị trường hay sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường, vì vậy, giá cả có thể không chính xác và có khả năng khác với mức giá thực tế tại bất kỳ thị trường nào, điều này có nghĩa các mức giá chỉ là minh họa và không phù hợp cho mục đích giao dịch. Fusion Media và bất kỳ nhà cung cấp dữ liệu nào có trên trang web này đều không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Fusion Media và/hoặc nhà cung cấp. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.
Fusion Media có thể nhận thù lao từ các đơn vị quảng cáo xuất hiện trên trang web, dựa trên tương tác của bạn với các quảng cáo hoặc đơn vị quảng cáo đó.
Phiên bản tiếng Anh của thỏa thuận này là phiên bản chính, sẽ luôn được ưu tiên để đối chiếu khi có sự khác biệt giữa phiên bản tiếng Anh và phiên bản tiếng Việt.
© 2007-2025 - Công ty TNHH Fusion Media. Mọi quyền được bảo hộ.