🌎 Tham gia cộng đồng hơn 150K nhà đ.tư ở hơn 35 nước & dùng công cụ chọn CP bằng AI để đạt lợi nhuận hàng đầu thị trườngMở Khóa Ngay

Khủng hoảng ngân hàng là hệ lụy khủng hoảng kinh tế

Ngày đăng 16:00 17/10/2022
Khủng hoảng ngân hàng là hệ lụy khủng hoảng kinh tế

Vietstock - Khủng hoảng ngân hàng là hệ lụy khủng hoảng kinh tế

Giải Nobel kinh tế 2022 được trao cho Ben Bernanke, Douglas Diamond, và Philip Dybvig, vì những đóng góp của họ trong lĩnh vực nghiên cứu về hệ thống ngân hàng (NH) và khủng hoảng tài chính. Thật trùng hợp, lúc này thế giới đang trải qua giai đoạn khó khăn và có nhiều lo sợ hệ thống kinh tế sẽ bị khủng hoảng khi hệ thống NH bị đổ vỡ.

Ảnh minh họa.

Từ khung lý thuyết đến kiểm chứng

Chúng ta đều biết vai trò chính của NH là trung gian giữa bên gửi tiền và bên đi vay. Nhưng câu hỏi đặt ra là tại sao cần phải có NH? Diamond-Dybvig đã giải thích thông qua mô hình của họ, rằng có sự xung đột lợi ích giữa bên gửi tiền và bên cho vay: bên gửi tiền muốn được rút tiền bất cứ khi nào mình cần, nhưng bên đi vay không muốn bị đòi lại trước thời hạn. Khi đó có một nơi được gọi là NH xuất hiện và thực hiện vai trò giải quyết xung đột lợi ích này.

Sở dĩ điều này có thể thực hiện được vì bên gửi tiền xem việc rút tiền trước thời hạn tương tự như việc rút vốn đầu tư trước thời hạn, tức không giữ được cam kết và phải chịu thiệt một phần. Nhưng so sánh giữa 2 hình thức, gửi NH vẫn có lợi hơn vì được bù đắp bởi những người ban đầu có ý định tiết kiệm lâu dài nhưng lại rút ra sớm.

Ở vị trí trung gian, NH có vai trò quan trọng hơn là chuyển đổi kỳ hạn. Theo đó tiền gửi của khách hàng là nợ có kỳ hạn ngắn của NH được chuyển đổi thành tài sản có kỳ hạn dài là các khoản cho vay. Và đây cũng là lý do người ta gọi NH tạo ra tiền.

Nhưng cũng chính vì chức năng chuyển đổi kỳ hạn nên NH lại rất mong manh trước những tin đồn phá sản. Đó là khi có nhiều người gửi tiền muốn rút cùng một lúc, đến mức độ nào đó NH không còn đủ nguồn lực có sẵn để chi trả, phải bắt buộc thu hồi các khoản cho vay hay đầu tư trước thời hạn. Khi đó tài sản bị bán tháo và NH có khả năng bị sụp đổ. Minh chứng là cuộc khủng hoảng tài chính 1929-1933 với sự sụp đổ của hệ thống NH Mỹ.

Trong khi Diamond- Dybvig dừng ở mô hình lý thuyết vì sao cần phải có NH, vì sao NH rất nhạy cảm với tin đồn phá sản, và vì sao NH cần giám sát bên đi vay chứ bên đi gửi không cần giám sát NH. Bernanke cho thấy nếu hệ thống NH bị sụp đổ hệ lụy của nó sẽ rất nghiêm trọng.

Trước khi có công trình nghiên cứu của Bernanke, nhiều người tin rằng khủng hoảng đã có thể giải quyết nếu NHTW in thêm nhiều tiền. Bernanke cũng đồng ý một phần với nhận định này, nhưng cho rằng sự sụp đổ của hệ thống NH kéo theo hệ thống NH không thể thực hiện được việc chuyển đổi các khoản tiết kiệm sang đầu tư có hiệu quả, kinh tế sẽ suy sụp.

Nhìn lại cuộc đại khủng hoảng 1929-1933, lúc đầu chỉ là đợt suy thoái kinh tế vào năm 1929, nhưng qua năm 1930 là cuộc khủng hoảng NH. Trong vòng 3 năm, số lượng NH chỉ còn một nửa và phần lớn không đáp ứng được yêu cầu rút tiền của người gửi.

Vòng xoáy tử thần được tạo ra: nhiều người lo sợ rút tiền cũng đồng thời với việc gửi tiền vào NH giảm, còn NH không dám cho vay mới. Có nghĩa, tiền được đầu tư vào những tài sản khác có tính thanh khoản cao, không đi vào sản xuất kinh doanh. Hệ quả, thế giới đã chứng kiến cuộc suy thoái kinh tế dữ dội nhất trong lịch sử.

Ở khía cạnh khác, nhiều người cho rằng khủng hoảng NH là hệ lụy của khủng hoảng kinh tế chứ không phải là nguyên nhân. Nhưng Bernanke qua phân tích các dữ liệu đã cho thấy khủng hoảng NH dẫn đến khủng hoảng kinh tế và làm cho nó trầm trọng hơn.

Điều mấu chốt ở đây là khi NH bị phá sản, nguồn vốn quý của NH là mối quan hệ với những người đi vay bị cắt đứt. Hơn ai hết, NH nắm thông tin và hiểu bên đi vay như thế nào, từ lịch sử vay cho đến đảm bảo an toàn vốn vay. Và để có được nguồn vốn này cần thời gian, cũng như không chỉ là đơn giản chuyển giao cho một bên cho vay khác.

Để sửa chữa và phục hồi lại hệ thống NH bị sụp đổ mất rất nhiều thời gian và trong giai đoạn đó, kinh tế sẽ khó vận hành được hết công suất của mình. Bernanke đã cho thấy nền kinh tế sẽ không thể hồi phục hoàn toàn khi những hoảng loạn trong ngành NH chưa kết thúc.

Và áp dụng ngày nay

Diamond- Dybvig đã phát triển một mô hình lý thuyết về khủng hoảng NH, trong đó giải thích lý do cơ bản vì sao NH tồn tại và vì sao nó lại rất nhạy cảm với các tin đồn về khả năng bị phá sản. Và mô hình này đã trở thành nền tảng cho việc giám sát NH hiện đại trong các nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 là giai đoạn Ben Bernanke làm Chủ tịch đời thứ 14 của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed). Hơn ai hết ông hiểu hậu quả của việc sụp đổ hệ thống NH, do đó đã áp dụng nghiên cứu của mình trong việc giải cứu hệ thống NH Mỹ. Kết quả cho thấy hành động của ông cùng Fed, cũng như một số NHTW khác là đúng đắn.

Cuộc khủng hoảng 1933 khiến thu nhập bình quân đầu người của Mỹ giảm 28%, quay lại mốc năm 1929 sau 1 thập niên. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng 2009 chỉ làm giảm thu nhập bình quân đầu người 5% và trở lại mốc trước khủng hoảng trong vòng 6 năm. Hơn thế nữa, khủng hoảng 2009 khiến 0,6% NH Mỹ phá sản so với 50% vào năm 1933. Sau cuộc khủng hoảng tài chính này, sức khỏe của hệ thống NH các nước được chú trọng và củng cố rất nhiều, với các quy tắc chặt chẽ về an toàn vốn cũng như quản trị rủi ro hệ thống NH, theo các quy định mới như Dodd-Frank Act và Basel II, Basel III.

Tháng 7 vừa qua ở tỉnh Hà Nam Trung Quốc, hiện tượng người dân đổ xô rút tiền đã tạo ra dư chấn không nhỏ. Chính quyền đã phải thu xếp ổn thỏa vì họ biết rằng hệ lụy của sự sụp đổ NH rất lớn và khủng khiếp. Bằng mọi giá phải giữ vững sự ổn định của hệ thống NH.

Điều tương tự cũng vừa xảy ra ở Việt Nam, khi áp lực rút tiền của người dân từ NHTMCP Sài Gòn (SCB) rất lớn. NHNN đã phải lên tiếng đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, bảo đảm an toàn của hệ thống là mục tiêu hàng đầu.

Hệ thống NH luôn là phần huyết mạch quan trọng nhất của nền kinh tế, khi nó có vấn đề phải được xử lý nhanh, bởi tốc độ của tin đồn có thể vượt khỏi tầm kiểm soát và cái giá phải trả sẽ rất đắt.

TS. Võ Đình Trí, Trường ĐH Kinh tế TPHCM, IPAG Business School Paris, và AVSE Global

Bình luận mới nhất

Cài Đặt Ứng Dụng của Chúng Tôi
Công Bố Rủi Ro: Giao dịch các công cụ tài chính và/hoặc tiền điện tử tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, bao gồm rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư, và có thể không phù hợp với mọi nhà đầu tư. Giá cả tiền điện tử có độ biến động mạnh và có thể chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài như các sự kiện tài chính, pháp lý hoặc chính trị. Việc giao dịch theo mức ký quỹ gia tăng rủi ro tài chính.
Trước khi quyết định giao dịch công cụ tài chính hoặc tiền điện tử, bạn cần nắm toàn bộ thông tin về rủi ro và chi phí đi kèm với việc giao dịch trên các thị trường tài chính, thận trọng cân nhắc đối tượng đầu tư, mức độ kinh nghiệm, khẩu vị rủi ro và xin tư vấn chuyên môn nếu cần.
Fusion Media xin nhắc bạn rằng dữ liệu có trên trang web này không nhất thiết là theo thời gian thực hay chính xác. Dữ liệu và giá cả trên trang web không nhất thiết là thông tin do bất kỳ thị trường hay sở giao dịch nào cung cấp, nhưng có thể được cung cấp bởi các nhà tạo lập thị trường, vì vậy, giá cả có thể không chính xác và có khả năng khác với mức giá thực tế tại bất kỳ thị trường nào, điều này có nghĩa các mức giá chỉ là minh họa và không phù hợp cho mục đích giao dịch. Fusion Media và bất kỳ nhà cung cấp dữ liệu nào có trên trang web này đều không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào trước bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào xảy ra từ kết quả giao dịch của bạn, hoặc trước việc bạn dựa vào thông tin có trong trang web này.
Bạn không được phép sử dụng, lưu trữ, sao chép, hiển thị, sửa đổi, truyền hay phân phối dữ liệu có trên trang web này và chưa nhận được sự cho phép rõ ràng bằng văn bản của Fusion Media và/hoặc nhà cung cấp. Tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều được bảo hộ bởi các nhà cung cấp và/hoặc sở giao dịch cung cấp dữ liệu có trên trang web này.
Fusion Media có thể nhận thù lao từ các đơn vị quảng cáo xuất hiện trên trang web, dựa trên tương tác của bạn với các quảng cáo hoặc đơn vị quảng cáo đó.
Phiên bản tiếng Anh của thỏa thuận này là phiên bản chính, sẽ luôn được ưu tiên để đối chiếu khi có sự khác biệt giữa phiên bản tiếng Anh và phiên bản tiếng Việt.
© 2007-2024 - Công ty TNHH Fusion Media. Mọi quyền được bảo hộ.