Vietstock - Cuộc khủng hoảng mang tên "đồng USD" sẽ quay trở lại châu Á?
Trong khi Chủ tịch Tập Cận Bình viếng thăm Hồng Kông nhân dịp 20 năm trung tâm tài chính này được Anh trao trả lại cho Trung Quốc, thì một “lễ kỷ niệm” 20 năm khác đã bị bỏ qua, Bloomberg cho hay.
Có thể đoán trước được rằng sẽ không có kế hoạch ăn mừng nào dành cho đợt sụp đổ của đồng baht Thái vào ngày 02/07/1997, vì nếu như sự trao trả Hồng Kông là một sự kiện rất quan trọng thì cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, từng lan nhanh từ Bangkok và Kuala Lumpur sang Jakarta và Seoul, lại là điều không ai muốn nhớ tới. Cuộc lây lan đó không những “nghiền nát” các đồng tiền châu Á mà còn phá hủy nghiêm trọng các hệ thống ngân hàng chưa đủ tiềm lực bằng cách hạn chế khả năng trả nợ bằng ngoại tệ của người đi vay.
Diễn viên chính trong vở bi kịch đó là đồng USD. Với các đồng tiền châu Á được neo theo đồng USD, các khoản vay bằng đồng bạc xanh khi đó là cách mà cả giới ngân hàng lẫn các công ty châu Á không phải trong ngành ngân hàng tài trợ cho bản thân mình. Số nợ mà các ngân hàng Mỹ cho khu vực châu Á -Thái Bình Dương vay đã tăng hơn gấp ba, lên 75 tỷ USD, trong chưa đầy một thập kỷ. Do vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi trước năm 1998, khoảng 58% trong tất cả các khoản nợ ngân hàng ở Indonesia là “có vấn đề”.
Indonesia là một ví dụ hay về việc mọi thứ đã thay đổi nhiều như thế nào. Trong vài năm qua, quốc gia sản xuất hàng hóa này đã phải hứng chịu hậu quả của vấn đề giá giảm. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu đối với hệ thống ngân hàng nước này là có thể quản lý được, khi chỉ ở mức 3%. Nói rộng ra hơn, các tổ chức tài chính của khu vực này hiện nay khá mạnh, với nguồn vốn và thanh khoản đang khiến phương Tây phải ghen tỵ, và một lượng tiền gửi khổng lồ giúp họ ít phụ thuộc hơn vào nguồn vốn từ nước ngoài.
Dù vậy, không phải mọi thứ đều “màu hồng”. Ấn Độ, quốc gia thoát được những tàn phá của năm 1997, cũng đã bỏ lỡ các cuộc cải cách ngân hàng sau đó. New Delhi đang phải sửa lại các quyền của chủ nợ vào thời điểm này, vì các ngân hàng ở quốc gia này hiện “ngập” trong 180 tỷ USD nợ xấu.
Ngoài ra, một số cải cách, chẳng hạn như “thuần hóa” các chaebol Hàn Quốc, là nằm ngoài khả năng của các chính trị gia, trong khi một số con nợ, như tập đoàn Bakrie do gia đình chính trị gia Indonesia Aburizal Bakrie kiểm soát, lại tỏ ra bất cẩn hơn bao giờ hết. Trong cuộc khủng hoảng năm 1997, gia đình này đã bị “bay” mất 97% cổ phần của họ ở tập đoàn này trong khi những chủ nợ cũng bị mất đến 80% trong vụ này. 20 năm sau, PT Bumi Resources, doanh nghiệp mũi nhọn chuyên khai thác than đá của tập đoàn này, đang trải qua một tái cơ cấu về nợ và trái phiếu mới của họ đã được tòa án chấp thuận.
Trong khi đó, tầm quan trọng ngày càng tăng của Trung Quốc đã tạo ra những cơ hội tài chính lẫn nguy cơ tổn thương mới.
Các thị trường chứng khoán và bất động sản của Hồng Kông cũng như những ngân hàng của thành phố này hiện đang bị Trung Quốc kiểm soát nhiều hơn bao giờ hết. Với hầu hết các quốc gia châu Á, Trung Quốc là đối tác thương mại số 1. Ngân hàng thương mại và công nghiệp Trung Quốc thậm chí đã đặt chân vào được Phố Wall bằng cách trở thành một dealer tốt nhất trong các thỏa thuận mua lại, sánh vai với những ngân hàng lớn như Goldman Sachs.
Tuy nhiên, khi trọng tâm kinh tế của thế giới thay đổi, các ngân hàng có thể phải mang gánh nặng của một sự chuyển giao lộn xộn. Chẳng hạn, kế hoạch “Một vành đai một con đường” của ông Tập Cận Bình có thể sẽ kêu gọi những ngân hàng trong khu vực giúp cung cấp vốn cho những dự án ít hiệu quả về mặt kinh tế.
Tác động của Trung Quốc lên ngành ngân hàng cũng có thể có những chiều hướng khác. Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của các ngân hàng châu Á đã dần giảm bớt, một phần vì những năm phải thực hiện chính sách lãi suất thấp. Tuy vậy, mảng công nghệ tài chính (fintech), đặc biệt là thách thức do Baidu, Alibaba và Tencent mang đến, có thể làm cho lợi nhuận thấp trở thành tiêu chuẩn mới. Để giúp các ngân hàng có thể xoay sở được, Singapore đang cho phép các tổ chức cho vay của mình sử dụng vốn vào những doanh nghiệp không thuộc lĩnh vực tài chính, điều mà trước đây họ từng cấm sau cuộc khủng hoảng châu Á.
Giữa vô số sự thay đổi, khả năng dễ bị tổn thương lớn nhất hiện nằm ở những gì giống như cách đây 20 năm: đó là đồng USD. Các khách hàng ở châu Á “hướng về xuất khẩu” vẫn muốn có đồng bạc xanh, và sự rút lui của các ngân hàng châu Âu khỏi ngành tài chính xuyên biên giới là một cơ hội lớn cho những ngân hàng nội địa để lấp đầy khoảng trống này và tiến hành toàn cầu hóa. Tuy nhiên, họ lại không có đủ lượng tiền gửi bằng USD.