Giá vàng thế giới có thể tăng đến đâu sau 3 tuần lên mạnh?
Vietstock - Định hình tiêu chí cho dự án trọng điểm thực thi “Công – Tư đồng kiến quốc”
Tinh thần của sáng kiến “Công – Tư đồng kiến quốc” là xây dựng đất nước và phát triển kinh tế không phải là trách nhiệm của riêng ai. Dù là doanh nghiệp lớn, nhỏ, hay chỉ đơn giản là người dân sử dụng sản phẩm, dịch vụ Việt, tất cả đều góp phần vào sự nghiệp chung.
Ủy ban IV tổ chức phiên họp ngày 28/9 thảo luận chuyên đề Phát triển nguồn lực và dịch vụ
|
Ngày 28/9/2025 tại TP.HCM, Ủy ban IV tổ chức phiên họp chuyên đề Phát triển nguồn lực và dịch vụ, tập trung thảo luận giá trị cốt lõi, cách thức triển khai hiệu quả và tiêu chí cho các dự án trọng điểm ở cấp quốc gia, địa phương và cơ sở (xã), được phân loại theo 20, 200 và 2,000 dự án.
Đây là “viên gạch” đầu tiên cho hoạt động của mô hình Toàn cảnh Kinh tế Tư nhân – Vietnam Private Economic Landscape (ViPEL), chuẩn bị cho chương trình Toàn cảnh diễn ra vào ngày 10/10 và định hình lộ trình làm việc định kỳ lâu dài.
Cuộc họp do đồng Chủ tịch Ủy ban IV là bà Cao Thị Ngọc Dung – Chủ tịch HĐQT PNJ và ông Nguyễn Anh Tuấn – Phó Chủ tịch HĐQT Vietjet Air chủ trì, với sự tham dự của hơn 25 doanh nghiệp hàng đầu, đại diện trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, bán lẻ, thương mại điện tử, hàng không, du lịch...
Xây dựng đất nước và phát triển kinh tế không phải là trách nhiệm của riêng ai
Tại phiên họp, bà Phạm Thị Ngọc Thủy – Giám đốc Văn phòng Ban IV, Thư ký ViPEL – cho biết Ban IV đã đưa ra nhiều đề xuất, sáng kiến để trả lời câu hỏi: sau hơn 3 tháng Nghị quyết số 68-NQ/TW được ban hành về phát triển kinh tế tư nhân, các bên đã làm gì và hiệu quả ra sao? Về phía tư nhân, có sáng kiến thành lập Quỹ phát triển kinh tế tư nhân, cùng cơ chế thẩm định và đánh giá thường xuyên, phù hợp với diễn biến thực tiễn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
Từ đó, sáng kiến mô hình ViPEL ra đời, khẳng định mong muốn của cộng đồng doanh nhân tư nhân trong việc thiết lập cơ chế kết nối, đối thoại và phối hợp thường xuyên, hiệu quả với Chính phủ, thay vì chỉ dừng ở những hội nghị “trình bày nỗi đau” như trước. Sáng kiến đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Thủ tướng Phạm Minh Chính. Qua nhiều vòng trao đổi, mô hình dần được định hình, hội tụ trí tuệ của hơn 20 doanh nhân tiêu biểu để trả lời câu hỏi mang tính cấp bách: “Toàn cảnh kinh tế tư nhân Việt Nam là gì?”
Để hiện thực hóa khát vọng đó, bài học từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan cho thấy họ đều có cơ chế kết hợp công – tư mạnh mẽ. Đây cũng là tinh thần của sáng kiến “Công – Tư đồng kiến quốc”: xây dựng đất nước và phát triển kinh tế không phải là trách nhiệm của riêng ai. Dù là doanh nghiệp lớn, nhỏ, hay chỉ đơn giản là người dân sử dụng sản phẩm, dịch vụ Việt, tất cả đều góp phần vào sự nghiệp chung.
Trong cơ chế này, khu vực công đóng vai trò cung cấp nguồn lực từ chính sách, pháp lý và sự minh bạch hiệu quả; trong khi khu vực tư đóng góp khát vọng, trí tuệ, tài chính, công nghệ, con người và năng lực quản trị. Đây không còn là câu chuyện “xin – cho” mà là “cùng làm, cùng chia sẻ trách nhiệm, vướng ở đâu tháo gỡ ở đó”. Nguyên tắc vận hành của ViPEL phải dựa trên cam kết mạnh mẽ từ cả công và tư ngay từ đầu, đồng thời có cơ chế giám sát, đo lường hiệu quả minh bạch và thường xuyên, thay vì dừng ở khẩu hiệu.
“Kết quả đầu ra năm 2025 sẽ là nền tảng, để từ 2026 trở đi, ViPEL không chỉ mang tính phong trào mà trở thành cấu trúc phối hợp công – tư bền vững, giải quyết hiệu quả bài toán công – tư đồng kiến quốc”, bà Thủy nhấn mạnh.
Trong tổng thể phát triển đất nước, ViPEL được xác định là cấu trúc tập hợp, gắn kết sức mạnh khu vực tư nhân đóng góp cho quốc gia. Những vấn đề lớn của quốc gia sẽ được trao cho đại diện tư nhân, thay thế tư duy “mạnh ai nấy làm” bằng “tư – tư” và “công – tư” phối hợp. Mô hình sẽ triển khai ở ba cấp: trung ương, địa phương và cơ sở, với sự tham gia của mọi doanh nghiệp Việt Nam, không phân biệt quy mô, mở ra một “cuộc chơi” chung cho tất cả.
Làm sao để khối tư nhân đồng lòng hợp tác với nhau?
Theo bà Thủy, tiêu chí chung cho các dự án trọng điểm là phải đáp ứng mục tiêu từ cấp quốc gia đến cơ sở, chứng minh lợi ích kép cho cả khu vực công và tư, có tính lan tỏa và cam kết thực thi.
Bà lấy ví dụ: một dự án quốc gia như phát triển chiến lược ngành hàng không không chỉ thay đổi cục diện ngành mà còn phải gắn với phát triển hạ tầng, công nghiệp trọng yếu, đột phá và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Ở góc độ năng lực cốt lõi, Việt Nam cần đầu tư mạnh để làm chủ vai trò về chủ đầu tư, tổng thầu, nhà vận hành. Vấn đề cần phải xác định đâu là “giá trị lõi” mà doanh nghiệp và nền kinh tế phải chinh phục để dự án thực sự mang tác động vĩ mô, gia tăng tính nội địa và khả năng tự chủ.
“Thời kỳ mở cửa, FDI đã mang lại giá trị to lớn, nhưng hạn chế là chuyển giao công nghệ chưa thành công. Do đó, cần tính đến giá trị thực chất mà doanh nghiệp Việt có thể đóng góp, đảm bảo hiệu quả và khả thi”, bà nhấn mạnh.
Bà Cao Thị Ngọc Dung - Chủ tịch HĐQT PNJ thảo luận tại phiên họp
|
Bà Cao Thị Ngọc Dung – Chủ tịch HĐQT PNJ – cho rằng bên cạnh phối hợp công – tư, sự kết nối tư – tư cũng rất quan trọng: “Doanh nghiệp trong cùng ngành chưa ngồi lại với nhau, thì làm sao có thể kết nối với khu vực công? Nếu các doanh nghiệp tư nhân đồng lòng, sức mạnh sẽ rất lớn. Vì vậy, xây dựng hệ sinh thái tư nhân và liên kết chuỗi giá trị là điều cấp thiết.”
Ông Nguyễn Anh Tuấn – Phó Chủ tịch HĐQT Vietjet Air (ngồi giữa) thảo luận tại phiên họp
|
Ông Nguyễn Anh Tuấn – Phó Chủ tịch HĐQT Vietjet Air đã làm rõ khái niệm “đồng kiến quốc” không chỉ là một khẩu hiệu mà là một quy trình hành động toàn diện. Theo ông, đồng kiến quốc bao gồm việc cùng nhau xây dựng chiến lược, hoạch định chính sách, tổ chức thực thi và đồng thời kiểm tra giám sát. Để biến điều này thành hiện thực, Việt Nam cần phải thể chế hóa một tổ chức có cơ chế vận hành rõ ràng. Tổ chức này phải có sự tham gia của đại diện Nhà nước và khối doanh nhân nhằm giải quyết các vướng mắc chính sách, ví dụ như làm thế nào để khối tư nhân thực sự đồng lòng hợp tác với nhau.
Về cơ chế chính sách, ông Tuấn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển năng lực nội tại khi giao dự án cho tư nhân. Chính sách phải quy định tỷ lệ sử dụng nhà thầu trong nước để không chỉ xây dựng năng lực tổng thầu mà còn nâng cao năng lực của chủ đầu tư và nhà vận hành. Điều này sẽ là chìa khóa để giải quyết bài toán chuyển giao công nghệ.
Năng lực chủ đầu tư được ông Tuấn định nghĩa là tầm nhìn, khả năng nhận diện vấn đề và cơ hội. Một chủ đầu tư có tầm nhìn sẽ xây dựng được hệ thống tổ chức và tìm được tổng thầu phù hợp. Do đó, cần tìm kiếm và giao nhiệm vụ cho những chủ đầu tư chính có đủ năng lực, mang tính chất dẫn dắt theo chiến lược quốc gia.
Ông đề xuất tập trung lựa chọn khoảng 20 dự án trọng điểm mang lại lợi ích và lợi thế cạnh tranh quốc gia, đồng thời phải nằm trong các lĩnh vực có tài nguyên sẵn có. Ông lấy ví dụ về việc xác định lợi thế lõi từ tài nguyên quốc gia – một khái niệm rộng, bao gồm cả dân số đông như lợi thế mua sắm khổng lồ của Trung Quốc. Trong ngành dầu khí, tài nguyên dầu lửa là lợi thế, và thăm dò khai thác là hoạt động lõi; còn trong ngành hàng không, bầu trời là tài nguyên, và hoạt động bay là lõi. Từ những hoạt động lõi này, các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ như chế tạo giàn khoan, vận hành cảng, tài chính ngân hàng sẽ phát triển theo. Khi đã có nhà đầu tư dẫn dắt, Nhà nước cần giao cho họ những mục tiêu rõ ràng để xây dựng năng lực tổng thầu trong nước và giao việc cho họ.
Cuối cùng, việc huy động vốn phụ thuộc vào tính hiệu quả đầu ra của dự án. Ông Tuấn khẳng định nếu dự án tốt, đảm bảo tính hiệu quả, việc thu xếp vốn sẽ đơn giản, có thể huy động cả trong nước và quốc tế thông qua nhiều kênh như phát hành trái phiếu, vay ngân hàng hay bán cổ phần (trong khuôn khổ quy định).
Ông Tuấn kết luận, mục tiêu trước mắt là tập trung tư duy để lựa chọn những dự án trọng điểm, qua đó tạo ra hành lang pháp lý và cơ chế chính sách dẫn dắt, lan tỏa cho tất cả các dự án khác. Ông tin rằng, khi nhân dân thấy rõ lợi ích của mình gắn liền với lợi ích của Đảng và doanh nghiệp, đó chính là công thức để đất nước thành công.
Ngày 11/9/2025, Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ (gọi tắt là Ban IV) cùng các doanh nhân tiêu biểu của nền kinh tế đã phối hợp công bố Mô hình Toàn cảnh Kinh tế tư nhân Việt Nam (ViPEL). ViPEL là một trong bốn nhiệm vụ quan trọng mà Thủ tướng Chính phủ giao Ban IV xây dựng, là mô hình liên kết duy nhất, toàn diện nhất các ngành/lĩnh vực lớn của nền kinh tế; với cấu trúc gồm 4 Ủy ban. Bao gồm: Ủy ban I - Các ngành công nghệ mới nổi, đổi mới sáng tạo; Ủy ban II - Phát triển hạ tầng và các ngành có lợi thế cạnh tranh quốc gia; Ủy ban III - Các ngành công nghiệp, sản xuất, chế biến chế tạo; Ủy ban IV - Phát triển nguồn lực và dịch vụ. Mục tiêu của mô hình Toàn cảnh Kinh tế Tư nhân – Vietnam Private Economic Landscape (ViPEL) là biến Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị thành hiện thực, không chỉ nằm trên giấy. Điều này đòi hỏi phải có luật định, cơ chế vận hành cụ thể và kết quả đo đếm được. Sau lễ công bố, mô hình Toàn cảnh Kinh tế tư nhân Việt Nam sẽ chính thức khởi động bằng phiên làm việc đầu tiên của 4 Ủy ban (từ 28–30/9). Đây là những “viên gạch nền” cho hoạt động của mô hình, chuẩn bị cho chương trình Toàn cảnh 10/10 và định hình lộ trình làm việc định kỳ lâu dài. Các cuộc họp tập trung vào bốn mục tiêu: 1. Nhận diện các bài toán lớn/thách thức lớn nhất cần giải hoặc dư địa/bài toán lớn để tăng trưởng đột phá cho nhóm ngành, lĩnh vực trong Uỷ ban. 2. Xác định các dự án điển hình năm 2025 cấp độ ViPEL 20, 200, 2000 và các DN đầu mối để dẫn dắt dự án, phối hợp phía công. 3. Định hình cách làm (các bước đi) chiến lược cho nhóm ngành/Uỷ ban của mình và đề xuất cơ chế công - tư ra sao để 2026 tiến hành việc làm các chiến lược nhằm đảm bảo con đường đi phải bền vững. 4. Góp ý hoàn thiện Cơ chế đảm bảo thực thi công – tư |
Khang Di