Vietstock - Có ''bình ổn'' được lãi suất cho vay?
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã cho biết các giải pháp “bình ổn” lãi suất cho vay của NHNN sau khi cơ quan này nâng trần lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn.
Các giải pháp gồm giữ nguyên trần lãi suất cho vay, vận động các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục rà soát để tiết giảm các chi phí hoạt động, qua đó tạo điều kiện về mặt tài chính để giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay.
Trần lãi suất cho vay mà NHNN nêu ở đây chính là mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa cho năm lĩnh vực ưu tiên theo quy định tại khoản 2 điều 13 Thông tư 39/2016 của NHNN. Lần quy định trần lãi suất gần đây nhất có hiệu lực từ ngày 1-10-2020, với mức trần là 4,5%/năm. Theo tuyên bố của NHNN như trên thì mức trần 4,5% này sẽ tiếp tục có hiệu lực. Cần biết thêm là cho vay các lĩnh vực ưu tiên, theo ước tính của một số tổ chức, chỉ chiếm từ 20-25% tín dụng toàn hệ thống ngân hàng.
Thông thường, trần lãi suất cho vay chỉ được điều chỉnh khi trần lãi suất huy động (ngắn hạn) được điều chỉnh để đảm bảo không làm khó các TCTD (giảm thu nhập của họ). Nhưng trong lần điều chỉnh trần lãi suất mới nhất này, đã có sự lệch pha khi chỉ có trần lãi suất huy động được điều chỉnh tăng lên, còn trần lãi suất cho vay thì được giữ nguyên.
Lưu ý rằng TCTD không bị bắt buộc (không bị NHNN chỉ định) cho vay với lãi suất bằng hoặc thấp hơn trần lãi suất cho vay. Nếu thấy không có lợi, TCTD có toàn quyền từ chối cho vay, dù doanh nghiệp muốn vay là thuộc năm lĩnh vực ưu tiên. Ưu tiên ở đây là từ góc độ của NHNN, Chính phủ, chứ không phải là của TCTD.
Do các hạn chế về động cơ, nguồn lực, công cụ thực thi, room tín dụng, đường hướng chính sách tiền tệ, đối tượng/phạm vi tác động… nên lãi suất cho vay chắc chắn sẽ tăng lên khi lãi suất huy động tăng lên. |
Do đó, quyết định khống chế trần lãi suất cho vay trong khi nâng trần lãi suất tiền gửi (là điều làm tăng chi phí cho TCTD) sẽ dẫn đến hai hậu quả: TCTD thu hẹp cho vay (ngắn hạn, cho các lĩnh vực ưu tiên), và/hoặc TCTD “lách luật” bằng cách áp dụng các loại phí nếu doanh nghiệp quyết vay cho bằng được.
Hai hậu quả này dẫn đến hậu quả khác: Chủ trương bình ổn lãi suất cho vay không thành hiện thực, và/hoặc tín dụng càng bị siết chặt hơn, đặc biệt đối với các lĩnh vực ưu tiên, đi ngược lại mục tiêu của NHNN.
Để ngăn chặn, khắc phục các hậu quả trên, NHNN cần có và thi hành các công cụ “khuyến khích” TCTD tăng cường cho vay doanh nghiệp trong các lĩnh vực ưu tiên.
Công cụ khuyến khích đầu tiên là vận động TCTD tăng cường cho vay lĩnh vực ưu tiên. Để hợp lý hóa sự vận động này, nó nên/cần được đi kèm với sự vận động TCTD cắt giảm chi phí, là điều mà NHNN đã và đang áp dụng, như nêu ở trên. Tuy nhiên, các sự vận động này chỉ là… vận động, tức không phải cưỡng chế, bắt buộc, nên hiệu quả của chúng vẫn mang tính… hên xui! TCTD dù có cắt giảm được chi phí thì cũng không dại gì tự giảm lãi suất cho vay, trừ khi bắt buộc phải làm vậy.
Nên NHNN cần áp dụng công cụ mang tính… ép buộc hơn. Nhìn đi nhìn lại, hiện NHNN chỉ có công cụ đang áp dụng và có thể tiếp tục tăng cường triển khai là hạn mức tăng trưởng tín dụng. TCTD nào “kiên định” không chịu cho vay các lĩnh vực ưu tiên sẽ bị áp room thấp. Tuy nhiên, room cho từng TCTD mới được NHNN điều chỉnh trong tháng trước. Kể cả khi NHNN tiến hành một đợt điều chỉnh nữa từ nay đến cuối năm thì mức độ điều chỉnh (tăng room), nếu có, sẽ không đáng kể (bởi bị khống chế bởi room tín dụng chung của cả nền kinh tế). Các TCTD khó lòng đánh đổi lợi ích trông thấy được trong bối cảnh lãi suất huy động đang tăng nhanh như hiện nay (không cho vay với lãi suất thấp để không bị thiệt hại) lấy lợi ích mù mờ hơn (được tăng một ít room).
Một công cụ khuyến khích mang tính… hiền hòa hơn là NHNN cho TCTD vay với lãi suất ưu đãi để họ có nguồn vốn rẻ tăng cường cho vay lĩnh vực ưu tiên. Khả năng này là có nhưng lại vấp phải rào cản là chủ trương thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát và ổn định tỷ giá. Nên nếu được áp dụng thì quy mô các gói cho vay ưu đãi với nguồn vốn rẻ từ NHNN này sẽ cũng chỉ dừng lại ở mức không đáng kể nếu NHNN không muốn TCTD phải cắt giảm cho vay các lĩnh vực khác để đảm bảo tăng trưởng tín dụng không vượt quá room được cấp.
Ngoài các vấn đề liên quan đến cho vay lĩnh vực ưu tiên, thông thường, để đáp ứng lời vận động của NHNN về giảm lãi suất cho vay, một số TCTD, tự nguyện hay không, cũng sẽ đưa ra các gói cho vay với lãi suất ưu đãi cỡ vài ngàn tỉ đồng. Tuy nhiên, có vài điểm cần lưu ý ở đây. Cụ thể, thường chỉ có một vài TCTD tung ra các gói cho vay ưu đãi này. Nếu có thì phần lớn là dành cho doanh nghiệp trong năm lĩnh vực ưu tiên, để rồi TCTD phải thu hẹp cho vay các lĩnh vực còn lại (lớn hơn nhiều so với năm lĩnh vực ưu tiên) nhằm bảo toàn vốn và/hoặc tuân thủ room tín dụng. Quan trọng không kém là không thể loại trừ trường hợp TCTD công bố gói cho vay ưu đãi chủ yếu để lấy “tiếng thơm” chứ không thực tâm, ráo riết thực hiện. Bởi vậy, các gói cho vay ưu đãi này chắc chắn không có tác động đáng kể đến mặt bằng lãi suất cho vay.
Tóm lại, do các hạn chế về động cơ, nguồn lực, công cụ thực thi, room tín dụng, đường hướng chính sách tiền tệ, đối tượng/phạm vi tác động… nên lãi suất cho vay chắc chắn sẽ tăng lên khi lãi suất huy động tăng lên. Nói cách khác, hiệu quả của việc “bình ổn” lãi suất cũng sẽ chỉ tương tự như hiệu quả của các cuộc “bình ổn” giá cả các loại hàng hóa nói chung mà thường kết thúc trong sự tăng giá không thể cưỡng lại theo đà tăng giá chung của hàng hóa, dịch vụ (tức lạm phát).
Châu Phan