Xuất nhập khẩu tháng 10 thặng dư, động lực chính đến từ khu vực FDI
Theo số liệu ước tính từ Tổng cục Thống Kê, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu tháng 10 lần lượt đạt 27.3 tỷ USD (0.1% YoY) và 26.2 tỷ USD (7.7% YoY).
Cán cân thương mại tháng 10 thăng dư 1.1 tỷ USD. Cụ thể, khu vực có vốn FDI xuất siêu đạt 2.8 tỷ (-32.5% YoY và + 88.7% MoM), trong đó xuất khẩu đạt 20.41 tỷ USD (+2.9% MoM) và nhập khẩu đạt 17.6 tỷ USD (-4.1% MoM), phản ánh xuất khẩu tại khu vực này phục hồi rõ nét, trong khi nhập khẩu có xu hướng giảm. Riêng khu vực trong nước vẫn duy trì nhập siêu 1.7 tỷ (+34% YoY và +51.48% MoM).
Tính lũy kế đến hết tháng 10 Việt Nam vẫn đang nhập siêu 1.64 tỷ USD, chủ yếu do các doanh nghiệp FDI đẩy mạnh nhập khẩu nguyên vật liệu, tích trữ hàng tồn kho trong quý 1 và 2 để tập trung cho hoạt động kinh doanh sản xuất cho các quý 3 và 4 theo đúng chu kì sản xuất.
Kim ngạch xuất khẩu vẫn duy trì ổn định từ đầu năm dù chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch bệnh
Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như máy móc thiết bị điện thoại, dệt may, giày dép, gỗ đều tăng (biểu đồ 4). Trong đó điện thoại, điện tử và máy tính có giá trị xuất khẩu tính đến ngày 15/10/2021 theo số liệu sơ bộ từ Tổng cục Hải Quan đạt 81.87 tỷ USD (+11% YoY), chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam, phần lớn đến từ các doanh nghiệp FDI.
Sức cầu của thị trường thế giới hồi phục mạnh, hoạt động xuất khẩu hàng hóa tăng trưởng ở các thị trường chủ lực như Mỹ, Trung Quốc, HongKong, Đài Loan, Hàn Quốc… (biểu đồ 3) Riêng tại thị trường Mỹ xuất khẩu tháng 9 đạt 7.03 tỷ USD (-9.54% YoY) mức giảm nhẹ so với cùng kỳ, nhưng tính lũy kế 9 tháng đầu năm vẫn đạt mức tăng trưởng ấn tượng 25.8% YoY.
Việc triển khai thực thi các FTA có hiệu quả, tiếp tục góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu kết hợp việc tận dụng ưu đãi mở cửa thị trường từ các hiệp định thương mại tự do mới ký kết như EVFTA, UKVFTA, CPTPP
Kim ngạch nhập khẩu giảm dần so với các tháng trước
Nhập khẩu khu vực FDI có dấu hiệu suy giảm dần (-4.1% MoM), trong đó sự sụt giảm chủ yếu từ các mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào do các doanh nghiệp FDI đã tích trữ đủ hàng tồn kho, nguyên vật liệu để phục vụ hoạt động sản xuất. Cụ thể vải, nguyên phụ liệu dệt may, điện thoại đều có mức giảm khoảng 10% so với tháng trước (biểu đồ 5).
Các mặt hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước vẫn suy giảm mặc dù nền kinh tế đang dần mở cửa trở lại, cụ thể nông sản rau quả (-12% MoM) và sữa (-17% MoM). Chúng tôi cho rằng nguyên nhân chính đến từ việc thu nhập của người tiêu dùng bị sụt giảm dưới tác động của dịch bệnh Covid-19 khiến họ điều chỉnh hành vi tiêu dùng theo hướng tăng tiết kiệm, giảm chi tiêu.
Chúng tôi kỳ vọng hoạt động xuất nhập khẩu sẽ hồi phục trong các tháng cuối năm nhờ:
- Các hoạt động sản xuất dần được khôi phục khi các quy định cách ly xã hội dần được nới lỏng từ cuối quý 3. (chỉ số PMI đã tăng trở lại lên trên ngưỡng trung tính 50 điểm trong tháng 10 khi đạt 52,1 điểm – biểu đồ 6)
- Nhu cầu tiêu dùng ở các đối tác xuất khẩu thương mại như Mỹ, EU đang hồi phục, nhờ việc nới lỏng dần các yêu cầu giãn cách xã hội của các quốc gia này (doanh thu bán lẻ & ăn uống, và dịch vụ dù đang trong xu hướng giảm sau giai đoạn tăng vọt thời gian đầu nới lỏng giãn cách, vẫn cao hơn so với cùng kỳ - biểu đồ 7)
- Mùa tiêu dùng cao điểm thường vào cuối năm
Biểu đồ 1. Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại
Xem thêm tại đây