Vietstock - 20 năm sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Indonesia học được gì?
Indonesia đã phải hứng chịu cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất của mình từ năm 1997-1998. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên quốc gia này đã để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế, khi một số báo cáo cho thấy rằng tăng trưởng của họ đã bị sụt giảm đến 13.7%, CNBC cho hay.
Trong vòng một năm, đồng rupiah của họ đã mất giá với tốc độ “chóng mặt”, khi từ mức 2,500 rupiah đổi được 1 USD, đồng tiền này đã giảm xuống chỉ còn 10,000 rupiad đổi 1 USD, và cuối cùng là 17,000 rupiad đổi 1 USD vào lúc đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng.
Theo Chatib Basri, Bộ trưởng Bộ Tài chính của Indonesia giai đoạn năm 2013-2014, hai mươi năm sau, mức sụt giảm từng gây ra sự nghèo đói, bất ổn chính trị, và nạn thất nghiệp hàng loạt ấy đã dạy cho các nhà làm chính sách những bài học quan trọng về vấn đề duy trì mức nợ khỏe mạnh.
Trò chuyện với CNBC trong chương trình "Capital Connection" vào hôm thứ Hai vừa qua, Basri cho rằng Indonesia đã học từ những sai lầm của mình, điều mà có thể được thấy trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi gói kích thích kinh tế của Chính phủ nước này đã góp phần hạn chế được tác động tiêu cực.
Tuy nhiên, những nỗ lực của Chính phủ để “giải phóng” nền kinh tế nước này không phải lúc nào cũng đến được các địa phương, vì các chính quyền đô thị thường từ chối làm theo luật pháp của quốc gia này. Vì sự phân tán quyền lực nên chính quyền trung ương Indonesia không có được sự kiểm soát toàn bộ, qua đó khiến cho bất kỳ chính sách mới nào cần được thực thi đầy đủ cũng có thể bị cản trở.
Và ông không phải là người duy nhất thể hiện sự lo ngại về nền kinh tế nước này. J. Soedradjad Djiwandono, cựu Thống đốc Ngân hàng Trung ương Indonesia giai đoạn 1993-1998, cho biết ông hiện lo lắng về việc quốc này đang gánh quá nhiều nợ.
Ông Djiwandono, người từng bị sa thải vì có những khác biệt trong chính sách với cựu Tổng thống Suharto trong cuộc khủng hoảng, nói rằng: “Lượng nợ ngày càng tăng của Indonesia khiến cho tôi lo sợ”.
“Các cuộc nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nợ cao có liên quan tới nhiều vấn đề hơn khi khủng hoảng nổ ra và cũng đòi hỏi thời gian hồi phục lâu hơn”, ông nói với CNBC.
Mặc dù những lo lắng của họ là có liên quan tới tương lai, nhưng các nhà đầu tư nước ngoài như Mark Mobius vẫn tỏ ra lạc quan về khu vực này.
Trong một báo cáo gần đây, Mobius, Chủ tịch điều hành nhóm thị trường mới nổi của công ty Templeton, nói rằng: “Nhiều quốc gia, công ty và cá nhân đã học được nhiều bài học khắc nghiệt về cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, đồng thời tạo dựng được những nguồn dự trữ ngoại tệ lớn hơn và giảm được khối lượng nợ nước ngoài có liên quan tới GDP và thu nhập”. Điều đó nghĩa là triển vọng ở các thị trường mới nổi thời hậu khủng hoảng là rất tốt.
Adrian Zuercher, trưởng bộ phận phân phối tài sản khu vực châu Á-Thái Bình Dương của quỹ quản lý tài sản UBS, nói với CNBC rằng mặc dù thị trường chứng khoán của Indonesia có thể là “kẻ chậm chạp” vào thời điểm này, nhưng ông kỳ vọng rằng nó sẽ thể hiện tốt hơn trong nửa sau của năm 2017.