Bitcoin và vàng có thể sẽ xuất hiện trên bảng cân đối ngân hàng trung ương vào năm 2030: DB
Vietstock - Góc nhìn khác về tỷ giá
Việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) giảm 0,25 điểm phần trăm lãi suất đã giúp hạ nhiệt sức ép tỷ giá tiền đồng so với đô la Mỹ, tạo điều kiện để Việt Nam tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ nới lỏng. Dù vậy, vẫn cần một giải pháp căn cơ hơn cho vấn đề này.
Kịch bản Fed có thể thực hiện thêm hai đợt giảm lãi suất đến cuối năm 2025 được đánh giá sẽ mở thêm dư địa cho việc điều hành chính sách tiền tệ “đa mục tiêu” của Việt Nam. Ảnh: LÊ VŨ |
Tỷ giá khó lường
Quyết định giảm lãi suất ngày 17-9-2025 được kỳ vọng là một tín hiệu thể hiện bước chuyển chính sách tiền tệ từ thận trọng sang nới lỏng của Fed. Theo xu hướng này, từ nay tới cuối năm 2025, Fed có thể thực hiện thêm hai đợt giảm lãi suất, mỗi lần 0,25 điểm phần trăm, vào các kỳ họp tháng 10 và tháng 12-2025. Kịch bản này được đánh giá sẽ mở thêm dư địa cho việc điều hành chính sách tiền tệ “đa mục tiêu” của Việt Nam, vừa ổn định tỷ giá, lạm phát, vừa duy trì mức lãi suất cho vay thấp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
Trong một báo cáo được truyền thông trích dẫn của VNDirect, tổ chức này nhận định, áp lực tỷ giá dự kiến sẽ hạ nhiệt trong quí 4-2025 khi đô la Mỹ (chỉ số DXY) suy yếu, Fed tiếp tục cắt giảm lãi suất và nguồn cung ngoại tệ gia tăng... Với dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII), nếu Fed tiếp tục lộ trình cắt giảm lãi suất, xu hướng dịch chuyển dòng vốn quốc tế sang thị trường mới nổi sẽ rõ nét hơn, qua đó tác động tích cực đến dòng vốn FII vào Việt Nam trong trung hạn. Với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), điều kiện tín dụng toàn cầu nới lỏng và lãi suất Mỹ giảm cũng tạo thuận lợi cho dòng vốn FDI, đặc biệt khi Việt Nam đang nổi lên như điểm đến đầu tư hấp dẫn cho các tập đoàn đa quốc gia đang tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng.
Nếu đến cuối năm xuất khẩu vẫn duy trì yếu, dù Fed tiếp tục cắt giảm lãi suất, căng thẳng tỷ giá có thể vẫn xảy ra ở nhiều thời điểm. |
Dù vậy, từ góc nhìn của Chứng khoán MBS, viễn cảnh có thể sẽ chưa thuận lợi như vậy. Trong Báo cáo Kinh tế vĩ mô tháng 9-2025, nhóm nghiên cứu của MBS chỉ rõ, vào tháng 8-2025, dù chỉ số DXY suy giảm, tỷ giá vẫn gia tăng do áp lực từ nhu cầu ngoại tệ trong nước tăng, nhất là trong giai đoạn các doanh nghiệp đẩy mạnh nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho mùa sản xuất cuối năm. Ngoài ra, tình trạng găm giữ đô la Mỹ trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng cũng được cho là yếu tố đóng góp vào đà tăng của tỷ giá.
Theo các chuyên gia từ MBS, dù đô la Mỹ được dự báo sẽ duy trì đà giảm về cuối năm khi Fed bắt đầu chu kỳ cắt giảm lãi suất mới, các áp lực nội tại sẽ là yếu tố chính góp phần vào đà tăng của tỷ giá, bao gồm: (1) chênh lệch lãi suất đô la Mỹ - tiền đồng vẫn tiếp diễn ngay cả khi Fed cắt giảm lãi suất thêm 0,5 điểm phần trăm vào quí 4-2025, qua đó, nâng tổng mức giảm năm nay lên tới 0,75 điểm phần trăm; (2) Nhu cầu nhập khẩu lớn hơn khi mức thuế 0% được áp dụng với hàng hóa từ Mỹ. Ngược lại, xuất khẩu nói chung sẽ chậm lại dẫn đến thặng dư thương mại bị thu hẹp; (3) Dòng vốn FDI sẽ chậm lại chờ đợi các thông tin rõ ràng hơn về thuế quan; (4) Chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới trong bối cảnh giá vàng tăng.
Chia sẻ quan điểm thận trọng trên, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TPHCM, nhận định hai yếu tố tác động lớn nhất tới tỷ giá từ nay tới cuối năm 2025 là chính sách tiền tệ của Fed và cán cân xuất nhập khẩu. “Theo số liệu của Cục Hải quan, từ ngày 1-9 đến 15-9, Việt Nam xuất khẩu 19,2 tỉ đô la Mỹ, nhập khẩu 19,85 tỉ đô la Mỹ, do đó, nhập siêu khoảng 640 triệu đô la Mỹ. Nếu đến cuối năm xuất khẩu vẫn duy trì yếu, dù Fed tiếp tục cắt giảm lãi suất, căng thẳng tỷ giá có thể vẫn xảy ra ở nhiều thời điểm”, vị chuyên gia dự đoán.
Giải mã nghịch lý
Thông thường, thặng dư cán cân thương mại sẽ mang nguồn ngoại tệ về nước, tạo thêm rất nhiều dư địa cho việc điều hành tỷ giá. Vậy nhưng, Việt Nam vẫn chưa tận dụng được lợi thế này.
PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân lý giải, mặc dù Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn, song đồng thời cũng phải nhập khẩu nhiều do chuỗi cung ứng trong nước chưa hoàn thiện. Phần lớn doanh nghiệp chỉ tham gia vào khâu gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng thấp, nên dù xuất siêu sang Mỹ ở mức cao, lượng đô la Mỹ thực sự ở lại Việt Nam vẫn còn hạn chế.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI thường có xu hướng nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện và máy móc từ công ty mẹ với mức giá cao, khiến dòng ngoại tệ thu được từ xuất khẩu lại chảy ngược ra nước ngoài thông qua hoạt động nhập khẩu.
Báo cáo do Bộ Tài chính công bố đầu năm 2025 cho thấy, trong năm 2023 có hơn 50% trên tổng số gần 29.000 doanh nghiệp FDI đã nộp báo cáo tài chính đầy đủ khai rằng đang làm ăn thua lỗ, tăng 21,2% so với năm trước đó. Lợi nhuận sau thuế của khu vực này giảm 16%, trong khi tổng tài sản lại tăng 6,8%. Những con số này khiến nghi vấn chuyển giá càng có cơ sở. Tuy nhiên, song song với việc bịt kín các kẽ hở, Việt Nam cần những giải pháp căn cơ để xử lý đồng thời nhiều bất cập hiện hữu.
“Chuỗi cung ứng lỏng lẻo là lý do doanh nghiệp dễ bị tổn thương khi có những thay đổi trong chính sách tỷ giá, tiền tệ hay chính sách thương mại toàn cầu. Việt Nam phải tận dụng tối đa nguồn nguyên phụ liệu và năng lực sản xuất trong nước, hình thành các chuỗi cung ứng hoàn chỉnh để phục vụ xuất khẩu. Nghĩa là, phải đưa ra lộ trình nội địa hóa và đề nghị doanh nghiệp FDI hợp tác cùng gia tăng tỷ lệ nội địa hóa này. Doanh nghiệp FDI đến Việt Nam cần hỗ trợ doanh nghiệp nội địa phát triển công nghiệp phụ trợ, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu thay vì chỉ tận dụng nguồn lao động giá rẻ và hưởng lợi từ các chính sách thu hút đầu tư”, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân đề xuất.
Theo vị chuyên gia, Việt Nam cũng nên nhìn nhận lại định hướng xuất khẩu dựa trên lợi thế hàng hóa giá rẻ. Chính sách này tạo ra độ nhạy về tỷ giá lớn, khuyến khích duy trì đồng tiền rẻ. Đây không phải là chiến lược tốt cho nền kinh tế trong dài hạn.
Khánh Nguyên