Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của nhân dân đối với dự thảo Thông tư quy định về hoạt động thẻ ngân hàng. Tài chính Ngân hàngTổ chức nào được phát hành thẻ ngân hàng?Minh Hiển • {Ngày xuất bản}Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của nhân dân đối với dự thảo Thông tư quy định về hoạt động thẻ ngân hàng.
Dự thảo Thông tư này quy định về hoạt động thẻ ngân hàng (gọi tắt là thẻ) bao gồm: hoạt động phát hành, sử dụng, thanh toán, chuyển mạch, bù trừ điện tử và quyết toán giao dịch thẻ.
Tổ chức phát hành thẻ
Tổ chức phát hành thẻ bao gồm:Ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phát hành thẻ khi hoạt động cung ứng dịch vụ thẻ được ghi trong Giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.
Ngân hàng chính sách phát hành thẻ theo quy định của Chính phủ.
Công ty tài chính tổng hợp và công ty tài chính tín dụng tiêu dùng được phát hành thẻ tín dụng khi hoạt động cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng được ghi trong Giấy phép do NHNN cấp.
Tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối được ký kết văn bản thỏa thuận với Tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT) để phát hành thẻ có BIN do TCTQT cấp.
Tổ chức phát hành thẻ (TCPHT) phải tuân thủ Tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa khi phát hành thẻ có BIN do NHNN cấp.
TCPHT phải ban hành quy định nội bộ về phát hành thẻ áp dụng trong hệ thống của mình đảm bảo tuân thủ theo quy định tại thông tư này và quy định của pháp luật.
TCPHT tại Việt Nam phải sử dụng BIN do Ngân hàng Nhà nước cấp. TCPHT tại Việt Nam có thỏa thuận phát hành thẻ mang thương hiệu của TCTQT được sử dụng BIN do TCTQT cấp.
TCPHT không được thỏa thuận với các tổ chức khác nhằm mục đích hạn chế hay ngăn chặn việc phát hành thẻ đồng thương hiệu.
Thủ tục phát hành thẻTrong thời hạn ít nhất 15 ngày trước ngày dự kiến phát hành loại thẻ mới hoặc có thay đổi về chức năng, nội dung thông tin in trên mẫu thẻ đã phát hành, TCPHT gửi thông báo về mẫu thẻ phát hành cho NHNN.
Khi phát hành thẻ ghi nợ, TCPHT phải yêu cầu chủ thẻ chính có tài khoản thanh toán mở tại TCPHT.
Thỏa thuận về việc phát hành và sử dụng thẻ phải được lập thành hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ phù hợp quy định tại Thông tư này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Trước khi giao kết hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ với khách hàng, TCPHT yêu cầu chủ thẻ cung cấp đầy đủ các thông tin, giấy tờ cần thiết nhằm nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và các quy định pháp luật có liên quan.
Các giấy tờ cần thiết của khách hàng khi giao kết hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ là bản chính hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu hoặc bản sao điện tử hoặc bản sao được chứng thực hoặc bản sao cấp từ sổ gốc theo quy định của pháp luật. Đối với trường hợp xuất trình bản chính để đối chiếu, TCPHT phải xác nhận vào bản sao và chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao so với bản chính. Trường hợp giấy tờ, tài liệu là thông điệp dữ liệu và thông tin, dữ liệu điện tử phải được TCPHT kiểm tra, đối chiếu, xác thực đảm bảo nội dung đầy đủ, chính xác và lưu trữ theo đúng quy định pháp luật về giao dịch điện tử.
TCPHT phải theo dõi thời hạn hiệu lực giấy tờ tùy thân của khách hàng để kịp thời yêu cầu khách hàng cập nhật, bổ sung thông tin giấy tờ tùy thân; tạm dừng giao dịch thẻ với các trường hợp giấy tờ tùy thân của khách hàng hết hiệu lực hoặc hết thời hạn.
TCPHT phải quy định về thời hạn hiệu lực của thẻ, trong đó thời hạn hiệu lực đối với thẻ trả trước định danh không được quá 03 năm. Trước khi tiếp tục gia hạn thẻ cho khách hàng, TCPHT phải thực hiện các biện pháp xác thực, xác minh lại khách hàng.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ngừng phát hành thêm loại thẻ đã phát hành, TCPHT phải thông báo bằng văn bản cho NHNN để theo dõi, quản lý.
TCPHT có thể thực hiện phát hành thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước định danh đối với chủ thẻ chính là cá nhân bằng phương thức điện tử.
Đối tượng được sử dụng thẻĐối với chủ thẻ chính là cá nhân: Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước; người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước.
Đối với chủ thẻ chính là tổ chức: Tổ chức đủ điều kiện mở tài khoản thanh toán được sử dụng thẻ ghi nợ. Tổ chức là pháp nhân được thành lập và hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam được sử dụng thẻ tín dụng, thẻ trả trước định danh. Chủ thẻ là tổ chức được ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân sử dụng thẻ của tổ chức đó hoặc cho phép cá nhân sử dụng thẻ phụ theo quy định.
Đối với chủ thẻ phụ:
Chủ thẻ phụ được sử dụng thẻ theo chỉ định cụ thể của chủ thẻ chính nhưng chỉ trong phạm vi quy định sau đây:
Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước;
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước;
Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được người đại diện theo pháp luật của người đó (chủ thẻ chính) đồng ý bằng văn bản về việc sử dụng thẻ được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ trả trước.
Chủ thẻ phải cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin, tài liệu, dữ liệu cần thiết theo yêu cầu của TCPHT khi giao kết hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ và chịu trách nhiệm về tính trung thực của các thông tin, tài liệu, dữ liệu mà mình cung cấp.
Khi sử dụng thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ được thấu chi, chủ thẻ phải sử dụng tiền đúng mục đích đã cam kết và thanh toán đầy đủ, đúng hạn cho TCPHT các khoản nợ gốc và lãi, phí phát sinh từ việc sử dụng thẻ theo hợp đồng đã giao kết với TCPHT.
Tăng cường các giải pháp bảo mật thanh toán trực tuyến và thẻ ngân hàng