Vietstock - Dòng vốn FDI - Những câu hỏi chưa lời đáp
Sau ba thập kỷ nhận dòng vốn nước ngoài, còn nhiều mặt trái mà Việt Nam chưa thể xử lý.
Xã Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên, Bình Dương nhìn từ trên cao xuống có một bố cục điển hình của kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 21.
Khung cảnh chụp từ vệ tinh được tạo thành từ 3 mảng chất liệu chính: mái tôn lớn, mái tôn nhỏ và đất nông nghiệp. “Mái tôn lớn” là những mảng tôn che các khối nhà xưởng rộng hàng nghìn mét vuông. Chúng là thành tố kinh tế cốt lõi của cả Tân Uyên và Bình Dương trong hơn một thập kỷ qua. Một phần lớn thuộc về các doanh nghiệp FDI.
Xung quanh nhà xưởng, là những “mái tôn nhỏ” đặc trưng: những mảng tôn chỉ có bề rộng khoảng hơn 2 mét, nhưng dài cả chục mét sâu vào từ phía mặt hẻm hoặc mặt đường. Đó là những khu nhà trọ công nhân. Lao động di cư là nguồn lực vận hành chính của các khu công nghiệp khắp đất nước.
Phông nền của bức tranh là những mảng xanh - đất nông nghiệp còn sót lại - một lời nhắc về quá khứ chưa xa. Trong vòng hai thập kỷ, Việt Nam đã xây dựng trên những vùng quê như thế này hàng trăm khu công nghiệp, thu hút một lượng vốn và lao động nông thôn khổng lồ.
Nam công nhân trong xóm trọ gần một khu công nghiệp tại TP HCM.
|
Trương T.A đến nơi này từ một huyện ven biển của tỉnh Sóc Trăng. Trong lời tuyển dụng của công ty may mặc Hàn Quốc mà T.A xin việc, bây giờ vẫn có thể tìm thấy trên mạng, người ta viết những câu quen thuộc: “Môi trường làm việc năng động, chuyên nghiệp”; “Cơ hội thăng tiến cho nhân sự tâm huyết, gắn bó lâu dài” và quan trọng nhất, “Được hưởng đầy đủ các chế độ, quyền lợi của người lao động theo luật Lao động”.
Ngày 24/4/2017, chàng trai 22 tuổi bắt đầu làm việc ở công ty E.V – một công ty có vốn Hàn Quốc tại Việt Nam ở bộ phận ủi. Tên các nhân vật trong bài viết này, sẽ được viết tắt theo quy ước riêng của tòa án trong những bản án liên quan được công bố.
Sau cánh cổng nhà máy
Lương của T.A trong bộ phận ủi của công ty là 4,4 triệu đồng. Cậu được ký hợp đồng chính thức ngày 1/7/2017 với thời hạn một năm. Nhưng chỉ nửa năm sau đó, T.A nhận được một quyết định sa thải với lý do “tái phạm nhiều ngày ủi không đạt năng suất trong thời hạn nâng lương”.
T.A không phải người duy nhất. Trong ngày 22/1 năm nay, công ty E.V ra hàng loạt quyết định sa thải nhân viên trong bộ phận ủi với cùng lý do. Các công nhân không chấp nhận: họ không “tái phạm” điều gì, vì trước đó, không hề có một quyết định kỷ luật, cũng không có họp kỷ luật sa thải.
Hai tuần sau, họ nộp đơn kiện công ty lên tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên.
Trong các bản án do TAND thị xã Tân Uyên công bố về vụ việc, những nguyên đơn đều là người di cư. Họ đến từ Long An, Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang. Mức lương đều khoảng hơn 4 triệu đồng mỗi tháng. Phần địa chỉ tạm trú của họ đều là một “nhà trọ” gần công ty. Họ đều bất ngờ bị sa thải vì “tái phạm nhiều ngày ủi không đạt năng suất”. Họ kiện để đòi lại những tháng lương không được làm việc.
Và trong tất cả các phiên tòa, ông Lee Sang S., giám đốc công ty có “môi trường làm việc chuyên nghiệp” kia và người đại diện đều vắng mặt. Suốt quá trình tố tụng của các vụ kiện, các văn bản của tòa không được công ty hồi đáp.
Trong tháng 5 và tháng 6/2018, bất chấp sự vắng mặt của bên bị đơn - một công ty đa quốc gia cách tòa án hai mươi phút đi xe, các thẩm phán của thị xã Tân Uyên tuyên cho các công nhân thắng kiện. Tòa nhận định việc sa thải là “trái pháp luật”, và E.V phải bồi thường cho công nhân.
Hồi kết của câu chuyện và việc những công nhân có nhận được đền bù hay không, sẽ phải chờ kết quả thi hành án, vốn là một câu chuyện dài kỳ khác với các ông chủ nước ngoài.
Đó không phải chuỗi vụ án đầu tiên liên quan đến sa thải lao động trái pháp luật được tòa án thị xã Tân Uyên thụ lý từ đầu năm. Quanh những mái tôn công xưởng, thị xã gần 200.000 dân này xuất hiện trong những tiêu đề kinh điển của báo chí khi bàn đến các khu công nghiệp: công nhân bị buộc thôi việc trái luật; tệ nạn xã hội (hay cụ thể hơn, là “máy bắn cá”); một vụ ngộ độc thực phẩm trong nhà máy với 300 nạn nhân; chủ doanh nghiệp bỏ trốn.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài mang lại cho Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung những thành quả không thể phủ nhận. Nhưng đi kèm đó là những vấn đề đã thành cố hữu.
Giờ tan tầm tại khu công nghiệp Tân Tạo.
|
Câu chuyện về các lao động “lớn tuổi” tại các khu công nghiệp mất việc đã làm nóng nghị trường Quốc hội và báo chí trong suốt tháng 7/2017. Đó là một tình trạng được nhận định là diễn ra phổ biến tại khối doanh nghiệp FDI.
Hoạt động thay đổi nhân sự liên tục của các công ty FDI có nhiều cách diễn đạt. Lúc là nghi vấn “cố tình sa thải lao động lớn tuổi” (Cổng thông tin Bộ LĐTB-XH); có lúc là “doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận nghỉ việc trên tinh thần thỏa thuận” (UBND tỉnh Đồng Nai); có lúc là công nhân “phải nghỉ việc vì sức ép năng suất, định mức lao động cao” (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam).
Bản chất sự việc đôi khi không thể phân định. Trong một phiên tòa khác tại TAND thị xã Tân Uyên hồi đầu năm, người lao động kể rằng phía công ty Hàn Quốc gọi lên và “yêu cầu ký vào đơn xin nghỉ việc”, thay vì đưa ra một quyết định sa thải. Họ (may mắn) không ký và kiện công ty ra tòa.
Nhưng không có nhiều người lao động làm được như vậy. Dù tiền bồi thường mới chỉ nằm trên giấy, những công nhân như Trương T.A đã đi rất xa so với phần lớn lao động di cư, những người thường cam chịu sự sắp đặt của ông chủ.
Những thiên đường giày da
Việt Nam đã bắt đầu thế kỷ 21 với một bước dịch chuyển đáng chú ý: các công ty nước ngoài bứt tốc về tỷ trọng trong ngành dệt may-da giày. Trong các thập kỷ trước đó, lĩnh vực này được duy trì chủ yếu bởi các công ty nhà nước và kinh tế hộ gia đình. Dệt may-da giày chính là tín hiệu đáng kể đầu tiên của dòng vốn FDI và “thời mở cửa”.
Đó là giai đoạn mà Hoa bắt đầu khăn gói từ Nghệ An vào Sài Gòn, xin việc vào một nhà máy của Đài Loan. Năm đó, Hoa là một cô bé 17 tuổi.
Gần hai thập kỷ qua đi, nơi Hoa làm giờ đã là công ty gia công gia công giày lớn nhất thế giới. Hoa chưa từng chuyển việc. Chứng kiến những rủi ro của đời công nhân, Hoa tin rằng chỉ có gắn bó với một công ty lớn mới an toàn. “Còn nhà xưởng, máy móc ở đây, chủ sẽ không dám trốn đi luôn; với cả thấy công nhân đông, họ cũng không dám làm bừa”, Hoa giải thích. Số lượng công nhân chỉ tính riêng ở Tân Tạo của doanh nghiệp này đã hơn 90.000 người.
Giá phòng trọ nơi đây đã tăng hơn gấp đôi. Tân Tạo từ một vùng đất sình lầy, nay thành đầu mối phát triển kinh tế của TP HCM, thu hút gần 300 doanh nghiệp. Mọi thứ đều chuyển biến kể từ ngày đầu tiên Hoa bước chân vào công xưởng. Duy chỉ có diện tích và thiết kế phòng trọ vẫn vậy. Vẫn là một căn phòng hơn mười mét vuông và một cửa chính, một cửa sổ.
Nhưng bên trong căn phòng trọ ấy, giờ đây, không chỉ có đời sống của một thanh niên độc thân, mà là sự lo toan cho cả một gia đình. Hoa đã lấy chồng, và trở thành một bà mẹ hai con.
Trẻ em trong xóm trọ trên đường SinCo, quận Bình Tân, TP HCM.
|
Công ty của Hoa là một trong những nhân chứng tiêu biểu cho việc dịch chuyển dòng vốn của ngành da giày-may mặc từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Cho đến đầu thế kỷ, công ty này vẫn là một tượng đài của thành phố Đông Quảng, tỉnh Quảng Châu - thủ phủ nền gia công của Trung Quốc. Các nữ công nhân Trung Quốc giống như Hoa hôm nay, trong giai đoạn 2003, trở thành nhân vật chính của “Gái công xưởng”, một cuốn sách bán chạy toàn cầu của Leslie T.Chang.
Nhưng mức lương của công nhân Trung Quốc bắt đầu tăng lên. Quốc gia đông dân nhất thế giới không còn là thiên đường của “sức lao động giá rẻ” nữa. Những cuộc đình công và biểu tình đòi tăng lương với quy mô hàng chục nghìn người bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều tại Đông Quảng. Từ 2011 đến 2017, lương trung bình của công nhân Trung Quốc tăng 64%, theo Euromonitor.
Trong một diễn tiến giờ đã quá quen thuộc, dòng vốn của ngành gia công được chuyển sang Việt Nam. “Công xưởng mới của thế giới” - truyền thông quốc tế gọi Việt Nam như thế để phân biệt với “công xưởng cũ” Quảng Châu. "Công xưởng cũ" giờ thành nơi người Trung Quốc nuôi giấc mơ “Made in China 2025”. Quốc gia này đã thành công trong việc hấp thụ nhiều công nghệ tiên tiến; giờ đang dần rơi bỏ ngành gia công, lắp ráp để nuôi mộng cùng ngành chế tạo.
Tốc độ tăng trưởng ngành dệt may trung bình từ 2011-2016
|
Những kịch bản được Leslie T.Chang mô tả 15 năm trước tại Đông Quảng giờ tái hiện ở Tân Tạo hay Bình Dương: một thế hệ công nhân chỉ kiếm đủ để duy trì cuộc sống, năm này qua năm khác, và khi “lớn tuổi” (theo chuẩn của nhiều nhà tuyển dụng), không có tích lũy.
Chị Lan (quê Kiên Giang) đưa con tới mẫu giáo để kịp giờ vào nhà máy.
|
Ảnh đứa con trai đầu được vợ chồng Hoa phóng thật to treo trên vách tường phòng trọ. Họ in thật to để có thể nhìn rõ mặt thằng bé mỗi ngày cho đỡ nhớ. Thằng bé được gửi về quê với ông bà nội để học lớp 1, sau khi hai vợ chồng biết một suất chạy vào trường bán trú ở đây có giá hơn 10 triệu đồng. Đứa bé hơn thì được gửi cho người trông trẻ gần nhà, mỗi tháng 2 triệu đồng.
“Đọc báo thấy bảo mẫu bạo hành trẻ cũng sợ nhưng phải chờ nó 2 tuổi, trường mẫu giáo mới nhận”, Hoa giải thích.
Phòng trọ cũ, mùa mưa nước cống tràn vào, sợ con bị bệnh, vợ chồng Hoa bấm bụng thêm 100.000 đồng chuyển qua chỗ mới, cao hơn, thoáng hơn. Ở một thời gian, gần nhà xuất hiện bãi rác. Nhưng lần này, họ không chuyển đi nữa, dẫu sao khu trọ này cũng mới xây, có camera an ninh tránh trộm cắp còn mùi hôi thối chỉ xuất hiện khi có gió về.
Hoa bây giờ còn mối lo lớn hơn là chỗ ở. Cô thường xuyên bị quản lý nhắc nhở vì làm kém năng suất. Đôi chân Hoa không còn khoẻ để đi lại nhiều trong xưởng hay đứng hàng giờ liền trong dây chuyền như thời hai mươi tuổi. Cô mắc bệnh khớp chân, mỗi lần hàng về nhiều, cô chỉ nghĩ giá như mình còn độc thân, để có thể không đắn đo bước thẳng ra khỏi cổng công ty và không quay lại.
Hoa ước có cái nghề trong tay, hai vợ chồng về quê sinh sống, gia đình đoàn tụ. Nhưng sau 15 năm trong nhà máy gia công giày, kỹ năng mà cô thành thạo nhất là dán đế giữa và khả năng đứng 8 tiếng liền. Cô cũng không thể đến dự lớp dạy nghề miễn phí cho công nhân do công ty mở vào buổi tối trong tuần. Ban ngày, công xưởng đã vắt kiệt sức; buổi tối cô còn phải lo cho đứa con nhỏ thường xuyên đau ốm. Nhưng hơn hết, công ty chỉ dạy nghề uốn tóc, trang điểm, những nghề mà Hoa cảm thấy không có năng khiếu và cũng không có tương lai ở quê nhà.
Các nhà trọ quanh khu công nghiệp Tân Tạo có giá từ 800.000 đồng đến 2 triệu đồng một tháng.
|
Dòng vốn ngoại tập trung vào gia công, lắp ráp, giá trị thặng dư thấp và đòi hỏi tay nghề đơn giản, làm nên nhiều lo ngại cho lực lượng công nhân.
Việc chỉ cần công nhân tay nghề thấp, không tạo ra những áp lực phải đãi ngộ cao. “Công nhân phải sống trong những khu trọ chật hẹp, kém chất lượng, với mức giá thuê chẳng theo một khung chuẩn nào” – PGS.TS Nguyễn Đức Lộc, chủ nhiệm một đề tài nghiên cứu về phúc lợi cho thanh niên công nhân phân tích – “Nhiều công nhân phải thường xuyên di chuyển chỗ ở để tìm những phòng trọ có giá phù hợp. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc an cư, lạc nghiệp mà còn là vấn đề lớn cho quản lý nhập cư của chính quyền”.
“Các doanh nghiệp trong và ngoài nước vẫn đứng ngoài cuộc trong vấn đề này”, ông Lộc nhận định.
Đòi hỏi các doanh nghiệp gia công tham gia giải quyết vấn đề “an cư, lạc nghiệp” của công nhân là điều Hoa chưa bao giờ dám mơ tới. Cô chỉ lo không biết sẽ duy trì được công việc này, mức lương 6 triệu đồng mỗi tháng này thêm bao lâu.
Việc lực lượng công nhân gia công lớn tuổi mất việc làm tại khu công nghiệp trở thành áp lực cho xã hội. Họ rất khó tìm việc làm mới - khi không có tích lũy cả về tài chính lẫn kỹ năng - cũng không thể quay về quê cũ khi nông thôn ngày càng ít việc làm.
Tháng 6/2018, tròn 30 năm Việt Nam tiếp nhận dòng vốn FDI và các vấn đề nó mang tới, Bộ trưởng Lao động - Thương binh - Xã Hội (LĐ-TB-XH) Đào Ngọc Dung tiết lộ rằng Chính phủ đã “đồng ý xây dựng đề án tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho công nhân”.
Hai mặt của đồng tiền
Tháng 1/2018, đêm tháng chạp tối đen, sương rơi ướt tấm bạt buộc tạm vào tường rào ngoài vỉa hè ở khu Công nghiệp Tây Bắc Củ Chi. Hạnh nhặt cành cây khô cho thêm vào đám lửa củi đã cháy hơn nửa. Thằng bé con đang ngủ say trên võng treo gần đó sau một hồi quấy khóc đòi ti mẹ.
Ông giám đốc người Hàn Quốc của công ty Hạnh đã biến mất hơn một tuần, kèm theo tiền lương tháng 12 của công nhân. Cô phải mang con theo cùng đồng nghiệp trực trước cổng công ty “canh me” ông chủ quay về. Ngày nắng, họ ngồi dưới bóng cây; đêm về thay nhau đốt lửa, mắc võng ngủ ngoài trời. Thỉnh thoảng, vài tiếng chửi thề vang lên, cả tiếng khóc tức tưởi. Những tấm áo mới cho con trẻ, đôi vé xe về quê từng được gói ghém trong tháng lương cuối năm này. Tất cả đã bốc hơi theo ông giám đốc.
“Cả nhà sáu anh chị em dâu rể đều làm cho công ty này nên giờ chết chùm theo, bọn em không biết vay mượn ai tiền vé về quê Tết này...”, Hạnh kể.
Ông giám đốc không chỉ cuỗm đi cái Tết của 600 công nhân mà cả gần 30 tỷ đồng bảo hiểm xã hội vẫn trừ vào lương của họ mỗi tháng. Con nhỏ đã gần một tuổi nhưng đến giờ Hạnh vẫn chưa nhận bảo hiểm thai sản. Đồng nghiệp của Hạnh, nhiều người có con đã lên hai, lên ba, chỉ biết đến bảo hiểm thai sản trên giấy tờ.
Bé Trần Thị Su (quê Đồng Tháp) trông ngóng mẹ cha đi làm về trong căn phòng trọ tại quận Bình Tân.
|
Ai cũng biết mình đang chịu thiệt, ai cũng biết công ty làm sai luật nhưng không mấy ai dám nghỉ việc. Bởi không ai dám chắc, qua chỗ làm mới liệu có tránh được những chuyện này. Hạnh bảo, mình không dám liều lĩnh, bởi công ty này dẫu sao vẫn còn có ưu điểm lớn: không sa thải lao động lớn tuổi, không “thay máu” công nhân định kỳ.
Tết năm đó, Hạnh tròn 25 tuổi. Hạnh đã đi làm nhà máy từ năm 13 tuổi, thời “làm chui” không có hợp đồng. Đó là một kịch bản mà người ta bắt gặp ở bất kỳ đâu được gọi là “công xưởng của thế giới”, từ Ấn Độ đến Việt Nam. Cuộc đời công nhân của cô bước vào năm thứ 12, đủ lâu để biết quyền lợi của mình có thể bị “treo” bất cứ lúc nào.
Theo một thống kê không đầy đủ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện có hàng trăm chủ doanh nghiệp FDI bỏ trốn. Trong đó, không ít nợ lương công nhân 3-4 tháng, nợ bảo hiểm xã hội nhiều năm liền. Các nhà đại diện pháp luật không thực hiện được việc truy tìm liên quốc gia.
Trả lời trên báo chí, đại diện Bộ LĐ-TB-XH cho rằng, các quy định pháp luật liên quan tới lao động hiện nay đã đầy đủ, gồm cả quy định doanh nghiệp phải trả lương đủ, đúng ngày, cũng như quy định đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Nếu thấy bị nợ lương hay không được đóng bảo hiểm xã hội thì công nhân phải phản ánh tới công đoàn cơ sở.
Nhưng “đâu lại vào đấy” hoặc “không ai trả lời” là kết quả của nhiều lần kiến nghị của những công nhân bị quịt lương, nợ bảo hiểm xã hội ở KCN Tây Bắc Củ Chi lên công đoàn công ty. Cuối cùng, họ tự đi đòi quyền lợi bằng nhiều cách mà có thể bị quy vào tội “gây rối trật tự công cộng”.
Không đủ tiền về quê, Hạnh cùng anh chị mình ở lại Sài Gòn. Họ hùn tiền nhau nấu nồi khổ qua ăn Tết, như thông lệ người miền Tây quê nhà. Hạnh bảo, ăn khổ qua cho qua cái khổ, cầu mong năm sau không còn xui xẻo bị chủ quịt lương.
“Đồng tiền nào cũng có hai mặt tốt và xấu” - ông Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, nói về dòng vốn FDI. Ông thuộc thế hệ đầu tiên tạo ra khung pháp lý để đưa vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhưng sau 30 năm, theo ông, FDI mang đến 80% được, còn 20% là cái mất.
“Giá trị lao động thấp” là một trong những mặt trái của vốn FDI tại Việt Nam được nêu lên tại nhiều diễn đàn. Có một nghịch lý: Chỉ số vốn con người (Human Capital Index) của Việt Nam, theo nhận định của World Economic Forum, cao nhất trong số các “công xưởng gia công” của thế giới, cùng Trung Quốc, Bangladesh và Ấn Độ. Tức là kỹ năng, kiến thức, nền tảng giáo dục của người lao động Việt Nam cho phép tạo ra nhiều giá trị kinh tế hơn. Nhưng xét về hiệu quả, chỉ hơn Bangladesh.
Lý do: trong suốt nhiều thập niên “trải thảm đỏ” thu hút vốn, Việt Nam đã đồng lòng thiết kế một hệ thống công xưởng gia công giá trị thấp để đầu tư vốn con người của mình vào đó. Những người như Hoa hay Hạnh, hay rất nhiều thanh niên nông thôn, sau khi hưởng thụ một nền giáo dục phổ thông được thiết kế cầu kỳ, chỉ tìm thấy cơ hội trong các nhà máy đòi hỏi trình độ lao động thấp kiểu này.
Một lao động Việt Nam trong năm 2016 chỉ tạo ra trung bình 3.683 USD, bằng chưa đến một phần ba so với một lao động Trung Quốc (12.362 USD). Tất nhiên, không phải vì lao động Trung Quốc khâu nhiều giày gấp ba lần lao động Việt Nam. Đôi giày họ khâu lên tạo ra giá trị thặng dư cao hơn, nhờ vào bản quyền thiết kế, hệ thống bán hàng, tiếp thị,... Hoặc thậm chí là vì họ không còn khâu giày, mà đã chuyển sang lắp ráp điện thoại thương hiệu Trung Quốc.
Và trách nhiệm về “giá trị lao động thấp” này, tất nhiên không thuộc về những người như Hạnh.
Sau nồi khổ qua ăn Tết, Hạnh vẫn bám trụ ở Củ Chi. Cô lại tìm được việc ở một nhà máy may khác, trong cùng khu công nghiệp. Đó gần như là lựa chọn duy nhất.
Nếu thanh xuân của người lao động là một nguồn vốn đối ứng, nó vẫn đang được tiêu chủ yếu theo cách của 20 năm về trước. Và nguồn vốn đó, theo tỷ lệ sinh, sẽ bắt đầu hao hụt trong khoảng vài năm tới đây.
Đức Hoàng - Bảo Uyên