Ai đang âm thầm gom hàng khi thị trường điều chỉnh sâu?
Vietstock - Mô hình cộng sinh công nghiệp: Nền tảng phát triển kinh tế tuần hoàn trong khu công nghiệp
Cộng sinh công nghiệp (Industrial Symbiosis - IS) được xem là một giải pháp cốt lõi để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong các khu công nghiệp. Thay vì hoạt động riêng lẻ, các doanh nghiệp liên kết và chia sẻ phụ phẩm, năng lượng, nước - biến chất thải thành tài nguyên.
Mô hình này mở ra hướng phát triển công nghiệp bền vững, đồng thời tạo đòn bẩy thu hút tài chính xanh, tăng trưởng dài hạn.
Cộng sinh công nghiệp là gì?
Cộng sinh công nghiệp, theo UNEP, là một mạng lưới hợp tác giữa các doanh nghiệp, trong đó chất thải hoặc phụ phẩm từ một quy trình sản xuất trở thành nguyên liệu đầu vào cho quy trình khác[1] [2]. Khái niệm này vượt xa việc đơn thuần tái chế hay tái sử dụng truyền thống, thay vào đó tạo ra hệ sinh thái công nghiệp tích hợp và đóng kín, nơi mà các dòng vật liệu, năng lượng, nước được chia sẻ một cách tối ưu.
Theo Nordregio, cộng sinh công nghiệp là một phương pháp tăng trưởng xanh, trong đó các công ty trao đổi tài nguyên như phụ phẩm nhiệt hoặc chất thải sinh học để sử dụng làm vật liệu thay thế cho các sản phẩm thương mại hoặc nguyên liệu thô. Qua đó giúp các doanh nghiệp truyền thống nhưng có vị trí địa lý gần nhau có thể tham gia tiếp cận tập thể, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và môi trường[3].
Sự khác biệt cốt lõi giữa cộng sinh công nghiệp và các chiến lược tuần hoàn truyền thống nằm ở tính hệ thống và tích hợp.
Trong khi mô hình "reuse, recycle" (tái sử dụng, tái chế) tập trung vào việc xử lý chất thải sau khi đã được tạo ra, cộng sinh công nghiệp thiết kế từ đầu một hệ thống sản xuất mà trong đó không tồn tại khái niệm "chất thải" thực sự. Mọi đầu ra của một quy trình đều được xem xét như một nguồn tài nguyên tiềm năng cho quy trình khác[4].
Các hình thức phổ biến của cộng sinh công nghiệp gồm việc trao đổi phụ phẩm nhiệt, nước, năng lượng, vật liệu. Đơn cử như việc sử dụng hơi thải từ một nhà máy điện để cung cấp nhiệt cho các quy trình sản xuất khác, hoặc việc xử lý nước thải từ một doanh nghiệp để tạo ra nước sạch phục vụ các mục đích khác trong khu công nghiệp[5].
Theo Ellen MacArthur Foundation, những hoạt động này giúp giảm thiểu chất thải, tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên; góp phần vào 3 nguyên tắc cốt lõi của kinh tế tuần hoàn: loại bỏ chất thải và ô nhiễm, duy trì sản phẩm và vật liệu ở giá trị cao nhất, và tái tạo thiên nhiên[6].
Trong báo cáo về hiệu quả tài nguyên trong công nghiệp, OECD đánh giá cộng sinh công nghiệp đại diện cho một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện các chính sách 3R (Reduce, Reuse, Recycle) và quản lý vật liệu bền vững.
Bài học quốc tế: Từ Kalundborg đến Ulsan - khi cộng sinh tạo giá trị
Mô hình Kalundborg tại Đan Mạch được xem là ngọn hải đăng cho cộng sinh công nghiệp toàn cầu, với lịch sử phát triển hơn 50 năm bắt đầu từ những hợp tác đơn giản vào thập niên 1970. Khởi đầu từ việc Kalundborg Refinery cung cấp khí dư thừa cho Gyproc để sấy khô tấm thạch cao, mạng lưới này đã phát triển thành một hệ sinh thái phức tạp với 16 đối tác và khoảng 50 luồng trao đổi cộng sinh[7] [8].
Mô hình cộng sinh công nghiệp Kalundborg
Nguồn: Kalundborg Symbiosis - Việt hóa bởi Nguyễn Nhiều Lộc.
|
Năm 2022, mô hình này đã tiết kiệm 600,000 tấn CO2, đạt được thông qua việc trao đổi 33 dòng vật liệu khác nhau giữa các bên tham gia. Tăng trưởng GDP của Kalundborg đạt 26.95% trong năm 2022, so với mức tăng trưởng trung bình 2% của Đan Mạch. Các khoản đầu tư cho cộng sinh đạt hàng tỷ USD, cho thấy tính khả thi kinh tế mạnh mẽ của mô hình này[9].
Ulsan tại Hàn Quốc tiếp cận khác với sự chuyển đổi từ phát triển tự phát sang mở rộng có hệ thống. Ban đầu, Ulsan phát triển cộng sinh một cách tự nhiên do các điều kiện thuận lợi như cơ sở hạ tầng năng lượng chung và các tiện ích dùng chung[10]. Từ năm 2005, Chính phủ Hàn Quốc khởi động Chương trình Phát triển Khu công nghiệp sinh thái quốc gia 15 năm với 3 giai đoạn nhằm chuyển đổi các khu công nghiệp cũ thành khu công nghiệp sinh thái.
Kết quả, từ 2005 đến 2014, các dự án đã giảm 6.48 triệu tấn CO2 và 1.09 triệu tấn các khí độc hại khác. Các khoản đầu tư vào R&D và phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp tạo ra 848 việc làm. UNIDO trong báo cáo về các chỉ số hiệu quả khu công nghiệp sinh thái ghi nhận rằng mô hình này đã chứng minh khả năng mở rộng quy mô hiệu quả từ cấp độ một khu công nghiệp lên cấp độ khu vực[11].
Trung Quốc với Khu sinh thái Thiên Tân thể hiện một mô hình lai giữa hợp tác Chính phủ và đổi mới công nghệ. Sau 15 năm phát triển, khu này đã đạt được diện tích xây dựng 22km², phủ xanh 11 triệu m2 và toàn bộ vùng nước ven bờ đạt chuẩn chất lượng nước cấp I (thường gọi là “chất lượng tuyệt vời”) - mức cao nhất theo tiêu chuẩn quốc gia cho nước mặt, đáp ứng đầy đủ cho bảo tồn hệ sinh thái và mục đích cảnh quan sinh thái. Doanh thu hàng năm từ chuỗi công nghiệp xanh đạt hơn 15 tỷ NDT, thu hút hơn 28,000 chủ thể thị trường với tỷ lệ thuế công nghiệp đạt 76%[12].
Các điều kiện thành công chung được rút ra từ những mô hình này bao gồm: thể chế liên kết mạnh mẽ giữa các bên tham gia, hệ thống chia sẻ hạ tầng hiệu quả, minh bạch dữ liệu dòng vật liệu. Trong nghiên cứu về các điều kiện thành công của cộng sinh công nghiệp, Nordregio nhấn mạnh vai trò của sự tin tưởng lẫn nhau và chia sẻ hệ tư tưởng giữa các bên tham gia như những yếu tố then chốt trong mô hình cộng sinh[13]. Hơn nữa, sự hỗ trợ dài hạn từ Nhà nước cho kinh tế tuần hoàn và cộng sinh công nghiệp, bao gồm các chiến lược toàn diện và mục tiêu ràng buộc, quy định, trợ cấp và các ưu đãi kinh tế khác, cũng rất quan trọng.
Cộng sinh công nghiệp tại Việt Nam
Việt Nam đang trong giai đoạn thí điểm triển khai cộng sinh công nghiệp tại một số khu công nghiệp. Tại khu công nghiệp Khánh Phú (Ninh Bình), Công ty Khí Ninh Bình đã triển khai dự án sản xuất CO2 lỏng sử dụng nguyên liệu đầu vào từ nguồn khí thải của Nhà máy Phân bón Ninh. Dự án này đã hoạt động được 3 năm với công suất 6,000m³ CO2/giờ, giúp giảm hơn 74,000 tấn khí thải vào môi trường mỗi năm[14].
Tại khu công nghiệp Deep C (Hải Phòng), một công ty năng lượng xanh đã thuê mái nhà của Công ty Bridgestone Việt Nam để lắp đặt hệ thống pin mặt trời. Với 80% diện tích mái nhà máy được lắp đặt, công ty đạt được sản lượng 14,321MWh/năm, cơ bản đáp ứng nhu cầu của công ty và cung cấp cho một số công ty khác trong khu công nghiệp. Tại khu công nghiệp Hòa Khánh (Đà Nẵng), khí biogas thải ra từ một công ty bia trở thành nhiên liệu cho lò hơi của một công ty dịch vụ năng lượng[15].
Theo Nghị định 35/2022/NĐ-CP, cộng sinh công nghiệp được quy định là hoạt động hợp tác giữa các doanh nghiệp trong một khu công nghiệp hoặc giữa các khu công nghiệp khác nhau để tối ưu hóa việc sử dụng hoặc tái sử dụng các yếu tố đầu vào và đầu ra như nguyên vật liệu, nước, năng lượng, chất thải, phế liệu và các yếu tố khác trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, việc triển khai cộng sinh công nghiệp tại Việt Nam vẫn gặp nhiều thách thức về kỹ thuật và thể chế. Một trong những khó khăn lớn là việc đo lường các tác động ngoại biên (externalities). Trong khi các doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí đầu tư cho hạ tầng và công nghệ cộng sinh, các lợi ích về môi trường và xã hội lại thuộc về cộng đồng, tạo ra một sự mất cân bằng trong cơ chế phân chia chi phí - lợi ích[16].
Trong hướng dẫn đo lường tính tuần hoàn, UNEP cho biết một trong những thách thức là thiếu các tiêu chuẩn chung và các số liệu, cùng với mô hình đánh giá rủi ro không phù hợp. Điều này chủ yếu do sự không chắc chắn của các công ty về dữ liệu cần thiết và thiếu cơ chế thu thập dữ liệu[17].
Bên cạnh đó, thiếu hệ thống MRV (Monitoring, Reporting, Verification - giám sát, báo cáo và thẩm định) cho vật liệu, carbon và tài nguyên. Dù đã có tiến triển trong các lĩnh vực như giao thông và nông nghiệp[18], MRV cho IS vẫn chưa được áp dụng rộng rãi, chủ yếu do thiếu thống nhất về phương pháp luận, dữ liệu không đồng bộ và chưa được tích hợp giữa các cấp từ trung ương tới địa phương. Báo cáo tổng hợp của ICAT ghi nhận rằng, nhiều dự án giảm phát thải đã được triển khai nhưng không thể so sánh được do không theo cùng chuẩn đánh giá, khiến việc theo dõi tiến độ thực hiện NDC (Đóng góp do quốc gia tự quyết định) gặp nhiều khó khăn[19].
Bên cạnh đó, World Bank chỉ ra rằng, thiếu cơ sở dữ liệu đầy đủ về dòng phụ phẩm và chất thải công nghiệp là rào cản lớn cho việc phát hiện và kết nối các cơ hội cộng sinh[20]. GIZ, trong dự án “Pathways to Eco-Industrial Parks in Vietnam”, cũng nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết về các tiêu chuẩn kỹ thuật rõ ràng, đặc biệt là đối với việc tái sử dụng vật liệu và nước[21].
Tương lai của IS tại Việt Nam
Việt Nam đang tích cực tích hợp cộng sinh công nghiệp (IS) vào quy hoạch khu công nghiệp và chiến lược quốc gia. Chiến lược Tăng trưởng Xanh Quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, đã khẳng định việc “khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng toàn diện và hiệu quả sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất”[22]. Đến năm 2030, 40-50% tỉnh, thành dự kiến sẽ chuyển đổi khu công nghiệp hiện có thành khu công nghiệp sinh thái, 8-10% địa phương định hướng sinh thái ngay từ khâu lập quy hoạch[23].
Kế hoạch Hành động Quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 (Quyết định 222/QĐ-TTg ngày 23/01/2025) xác định khu công nghiệp là lĩnh vực ưu tiên[24]. Luật Bảo vệ Môi trường 2020 cũng dành Điều 142 quy định về kinh tế tuần hoàn, cùng Nghị định 08/2022/NĐ-CP hướng dẫn lộ trình thực hiện, giao Bộ Tài nguyên và Môi trường (cũ) chủ trì ban hành kế hoạch hành động quốc gia.
Để IS phát triển thực chất, Việt Nam cần dữ liệu dòng phụ phẩm, hạ tầng chia sẻ và tiêu chuẩn kỹ thuật. Theo chuyên gia Ban Quản lý Dự án KCN sinh thái quốc gia, cần định nghĩa rõ tiêu chuẩn chất lượng vật liệu và nước, thay vì tiêu chuẩn công nghệ - do công nghệ liên tục thay đổi.
Về vốn, các giải pháp tài chính xanh đang mở ra cơ hội mới như trái phiếu liên kết ESG (ESG-linked bonds). Theo Climate Bonds Initiative, thị trường trái phiếu bền vững toàn cầu đạt 1,050 tỷ USD năm 2024, tăng 11% so với 2023; riêng khu vực châu Á-Thái Bình Dương chiếm 26%[25].
Ngoài ra, green loans (khoản vay xanh) và green credits (tín dụng xanh) có thể cấp vốn rẻ cho dự án tái sử dụng phụ phẩm, nước, năng lượng. Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú nhấn mạnh, cần cơ chế riêng cho tín dụng xanh trong KCN. Với hạ tầng quy mô lớn, blended finance (tài chính phối hợp công -tư) là lựa chọn khả thi: World Bank đang triển khai Chương trình Tăng tốc Chuyển đổi Năng lượng Bền vững trị giá 2.5 tỷ USD tại Đông Á - Thái Bình Dương, nhằm giảm 60 triệu tấn CO₂ và cấp điện sạch cho 20 triệu người[26]. IS gắn với ESG sẽ tăng khả năng thu hút vốn quốc tế.
[1] https://www.unep.org/news-and-stories/speech/circularity-accelerating-sustainable-consumption-and-production-uneps
[2] https://www.unepfi.org/wordpress/wp-content/uploads/2024/07/PRB_CE-Nexus_Guidance-Doc.pdf
[3] http://www.diva-portal.org/smash/get/diva2:917631/FULLTEXT01.pdf
[4] https://www.unepfi.org/wordpress/wp-content/uploads/2024/07/PRB_CE-Nexus_Guidance-Doc.pdf
[5] http://www.diva-portal.org/smash/get/diva2:917631/FULLTEXT01.pdf
[6] https://www.unepfi.org/wordpress/wp-content/uploads/2024/07/PRB_CE-Nexus_Guidance-Doc.pdf
[7] https://www.symbiosis-alliance.org/post/case-study-from-denmark-kalundborg-symbiosis
[8] https://nordregio.org/nordregio-magazine/issues/industrial-symbiosis/industrial-symbiosis-in-kalundborg/
[9]
[10] https://www.greenpolicyplatform.org/sites/default/files/downloads/best-practices/GGGI%20Case%20Study_South%20Korea%20Eco-Industrial%20Park%20Program_June%202017.pdf
[11] https://downloads.unido.org/ot/32/29/32293839/20230723%20ProDoc%20GEIPP%20II%20clean.pdf
[12] https://www.prnewswire.com/news-releases/15-years-of-development-and-construction-of-china-singapore-tianjin-eco-city-from-salt-alkali-wasteland-to-green-new-city-301929919.html
[13] https://norden.diva-portal.org/smash/get/diva2:917624/FULLTEXT01.pdf
[14] https://hoinhap.org.vn/en/new-events/16698-industrial-symbiosis-solutions-to-realize-a-circular-economy.html
[15] https://hoinhap.org.vn/en/new-events/16698-industrial-symbiosis-solutions-to-realize-a-circular-economy.html
[16] https://committees.parliament.uk/writtenevidence/50367/pdf/
[17] https://unece.org/sites/default/files/2024-02/ECECESSTAT20235_WEB.pdf
[18] https://climateactiontransparency.org/wp-content/uploads/2023/11/ICAT-Vietnam-Final-summary-report-produced-by-UNEP-CCC_ISPRA.pdf
[19] https://english.vov.vn/en/economy/vietnam-scales-up-eco-industrial-parks-to-promote-sustainable-development-post1159787.vov
[20] https://www.greenpolicyplatform.org/project/eco-industrial-park-initiative-sustainable-industrial-zones-vietnam-inclusive-and
[21] https://www.vietnam-briefing.com/news/vietnams-national-green-growth-strategy-unpacked.html/
[22] https://ce.acsdsd.org/knowledge/vietnam-law-on-environmental-protection-2020-instill-the-concept-of-the-circular-economy-through-erp/
[23] https://vietnamnews.vn/economy/1663040/eco-industrial-parks-vital-to-achieving-net-zero-emission-target-by-2050.html
[24] https://www.vietnam.vn/en/kinh-te-tuan-hoan-giai-phap-tot-nhat-thuc-day-tang-truong-kinh-te-tach-roi-o-nhiem
[25] https://www.climatebonds.net/files/documents/publications/Climate-Bonds-Initiative_Global-State-of-the-Market-Report_May-2025_2025-06-18-123430_mejk.pdf
[26] https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2024/09/24/world-bank-to-help-speed-up-low-carbon-transition-in-east-asia-and-pacific
Nguyễn Nhiều Lộc